Việt Nam ký hiệp định mang tính lịch sử về biển cả
Hiệp định về Bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học ở vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia (Hiệp ước về Biển cả) là một trong những điều ước quốc tế được chú ý nhất trong thập kỷ qua.
Sáng 20-9 (giờ New York), trong khuôn khổ hoạt động của Tuần lễ cấp cao Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (ĐHĐ LHQ) khóa 78, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã ký Hiệp định về Bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học ở vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên tham gia ký Hiệp định. Hơn 60 quốc gia tham gia ký Hiệp định trong Tuần lễ cấp cao ĐHĐ LHQ. Hiệp định sẽ có hiệu lực sau khi có 60 nước phê chuẩn, phê duyệt.
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn ký Hiệp định về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học ở vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia. Ảnh: VGP
Trả lời báo chí tại New York, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn cho biết Hiệp định này là một trong những điều ước quốc tế được chú ý nhất trong thập kỷ qua.
Văn kiện đầu tiên
Thứ nhất, đúng như tên gọi Hiệp ước về Biển cả, Hiệp định điều chỉnh việc khai thác, chia sẻ lợi ích và bảo tồn nguồn gien biển tại các vùng biển quốc tế. Đây là một nguồn lợi mới đầy tiềm năng, thuộc các vùng biển rộng lớn chiếm hơn 60% diện tích bề mặt của các đại dương mà không thuộc về quốc gia nào. Nhiều vùng ở đáy đại dương có hệ sinh thái đặc biệt giàu có, với nhiều loại gien quý hiếm, có giá trị cao cho nghiên cứu khoa học và tiềm năng kinh tế lớn, nhất là có thể tạo ra thuốc điều trị bệnh hiểm nghèo, sản xuất dược mỹ phẩm…
Hiện nay, hầu như chỉ có các nước phát triển và công ty tư nhân sở hữu công nghệ biển và công nghệ sinh học hàng đầu, với nguồn tài chính dồi dào mới có khả năng thu thập nguồn gien biển khơi và phát triển ứng dụng đem lại lợi nhuận, trong khi chưa có văn kiện quốc tế nào quy định nghĩa vụ chia sẻ lợi ích cũng như bảo tồn nguồn lợi này.
Hiệp định này là văn kiện đầu tiên điều chỉnh toàn diện việc bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gien biển ở các vùng biển quốc tế.
Thứ hai, trong những năm gần đây, nhận thức và quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với các vấn đề đại dương và luật biển ngày càng cao, đặc biệt trong bối cảnh cạn kiệt các nguồn tài nguyên biển do khai thác quá mức, tác động tiêu cực của ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu… Nhận thức được tầm quan trọng của việc phải gìn giữ nguồn gien tại các vùng biển sâu, xa bờ, các quốc gia đã ngồi lại với nhau để xây dựng nên văn kiện này. Việc ký được Hiệp định là kết tinh của quá trình nỗ lực lâu dài của cộng đồng quốc tế, một tiến trình gần 2 thập kỷ, trong đó đàm phán chính thức bắt đầu từ năm 2018, thu hút sự tham gia của hầu hết các nước thành viên Liên Hiệp Quốc, kể cả các nước không có biển hoặc không phải là thành viên Công ước Luật biển.
Việc dự thảo Hiệp định được thông qua bằng đồng thuận vào tháng 6 vừa qua, việc đông đảo các quốc gia tham gia ký Hiệp định ngay vào dịp mở ký thể hiện thành công của tiến trình đàm phán, là một dấu mốc lịch sử trong nỗ lực của cộng đồng quốc tế về bảo vệ môi trường biển, trong bối cảnh thực hiện Chương trình nghị sự 2030, đặc biệt là Mục tiêu phát triển bền vững số 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững biển và tài nguyên biển.
Video đang HOT
Thứ ba, bên cạnh mục tiêu bảo tồn, sử dụng bền vững, Hiệp định đã mở ra cơ hội cho các nước đang phát triển có thể tiếp cận, tham gia nghiên cứu và hưởng lợi từ nguồn gien ở các vùng biển quốc tế.
Thứ tư, đây là Hiệp định thứ ba được đàm phán và ký kết trong khuôn khổ Công ước Luật biển, là một sự tái khẳng định vai trò, tầm quan trọng của Công ước với tư cách là khuôn khổ pháp lý cho mọi hoạt động trên biển và đại dương.
Ý nghĩa quan trọng với Việt Nam
Với Việt Nam, là một quốc gia ven biển, “thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”, như Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhận định, Việt Nam tham gia tiến trình đàm phán văn kiện ngay từ đầu.
Hiệp định là kết quả của một quá trình thương lượng, thỏa hiệp xung quanh các luồng quan điểm khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau về khai thác và bảo tồn; khuyến khích nghiên cứu khoa học và xây dựng năng lực, chuyển giao công nghệ; chia sẻ lợi ích công bằng. Thành công của đàm phán Hiệp định rất đáng khích lệ, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.
Đối với Việt Nam, Hiệp định mang nhiều ý nghĩa quan trọng.
Thứ nhất, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên tham gia ký Hiệp định trong khuôn khổ chuyến làm việc của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Tuần lễ cấp cao ĐHĐ LHQ, truyền đi thông điệp mạnh mẽ về việc Việt Nam là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, chung tay cùng các quốc gia trên thế giới giải quyết các vấn đề toàn cầu, đóng góp vào hòa bình, thịnh vượng và phát triển bền vững.
Thứ hai, Hiệp định tiếp tục củng cố hệ thống văn bản pháp lý dựa trên Công ước Luật biển 1982 trong việc quản trị các vùng biển và đại dương, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Hiệp định tái khẳng định Công ước Luật biển 1982 là khuôn khổ pháp lý cho mọi hoạt động trên biển. Mọi yêu sách biển không được phương hại đến lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, phạm vi của các vùng biển quốc tế, nơi tài nguyên sinh vật biển thuộc về toàn thể nhân loại, phải được xác định thông qua và phù hợp với Công ước Luật biển 1982.
Thứ ba, Hiệp định mở ra cơ hội cho Việt Nam và các nước đang phát triển khác được tham gia nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ biển, và được hưởng lợi về mặt kinh tế từ việc các quốc gia khác có lợi thế lớn hơn về tiềm lực tài chính, khoa học – công nghệ khai thác nguồn gien ở vùng biển khơi và chia sẻ lại lợi ích với chúng ta. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 xác định “Phát triển khoa học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao”… là một trong những khâu đột phá, giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện mục tiêu “Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Thứ tư, Hiệp định tạo ra và khuyến khích những cơ chế hợp tác quốc tế, hợp tác biển khu vực nhằm mục tiêu bảo tồn, chia sẻ lợi ích từ nguồn gien biển. Đó là những cơ hội để Việt Nam có thể thúc đẩy hợp tác, tăng cường đan xen lợi ích, góp phần bảo vệ tổ quốc từ sớm, từ xa.
Thứ năm, Việt Nam tham gia tiến trình đàm phán ngay từ đầu, và có những đóng góp thực chất trong các nội dung liên quan đến xây dựng năng lực, chuyển giao công nghệ, thành lập các khu bảo tồn biển. Điều này góp phần thực hiện tầm nhìn của Chiến lược biển Việt Nam về “tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương”, thực hiện chủ trương phấn đấu đóng vai trò “nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải tại các diễn đàn đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước”, nêu tại Chỉ thị 25 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030.
Những việc tiếp theo cần thực hiện
Sau khi ký, các quốc gia cần thực hiện thủ tục phê chuẩn, phê duyệt để chính thức trở thành thành viên của Hiệp định. Hiệp định sẽ có hiệu lực 120 ngày sau khi có 60 nước thành viên. Trong vòng 1 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, Tổng thư ký LHQ sẽ triệu tập cuộc họp đầu tiên của Hội nghị thành viên Hiệp định này.
Cuộc họp đầu tiên của Hội nghị thành viên Hiệp định sẽ thảo luận và quyết định rất nhiều công việc quan trọng, trong đó bao gồm việc đàm phán, thông qua thủ tục vận hành của chính Hội nghị thành viên, cũng như các cơ quan khác được thành lập theo Hiệp định, quyết định tỷ lệ đóng góp thường niên của các nước phát triển cho quỹ đặc biệt của Hiệp định, dàn xếp về tài trợ… Các nước thành viên LHQ tham gia Hội nghị Liên chính phủ sẽ phải theo sát quá trình này, nếu muốn triển khai và bảo vệ các thành quả đã đạt được trong đàm phán. Để theo sát tiến trình, đóng góp vào thực thi đầy đủ và hiệu quả Hiệp định, điều đầu tiên cần thực hiện là phải sớm phê duyệt Hiệp định.
Bảo tồn loài mới ở Việt Nam - Bài 1: Ngăn chặn đà tuyệt chủng
Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên (WWF) vừa công bố báo cáo về phát hiện 380 loài mới, trong 2 năm 2021 và 2022, tại khu vực Tiểu vùng sông Mekong mở rộng của Đông Nam Á.
Riêng Việt Nam đã phát hiện 158 loài.
Báo cáo cũng kêu gọi các hành động khẩn cấp về giảm nguy cơ mất sinh cảnh và chấm dứt nạn buôn bán động vật hoang dã tại Việt Nam cũng như khu vực.
Cá thể tê tê Java quý hiếm được 2 giáo viên Lê Trọng Ngọc và Liêu Văn Quyết (trú tại xã Lộc Thiện, huyện Lộc Ninh, Bình Phước) phát hiện, bàn giao cho Hạt kiểm lâm. Ảnh: TTXVN phát
Bài 1: Ngăn chặn đà tuyệt chủng
Trong 2 năm 2021 - 2022, các nhà khoa học đã khám phá 380 loài thực vật có mạch và động vật có xương sống tại khu vực Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (gồm Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam). Khu vực này được đánh giá là một phần của điểm nóng đa dạng sinh học Indo-Miến Điện, với các loài mang tính biểu tượng toàn cầu và có nguy cơ tuyệt chủng như: hổ, voi châu Á, tê tê Sunda và cá đuối nước ngọt khổng lồ.
"Kho báu" các loài mới
Khu vực này cũng là nơi các loài mới được phát hiện liên tục từ năm 1997 đến nay, với tổng số loài được phát hiện lên đến 3.390 loài gồm thực vật có mạch, cá, lưỡng cư, bò sát, chim và động vật có vú.
Từ năm 2021 - 2022, các loài mới được phát hiện trong khu vực này gồm: 290 loài thực vật, 19 loài cá, 24 loài lưỡng cư, 46 loài bò sát và một loài động vật có vú được tìm thấy ở Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Trong đó, Việt Nam chiếm số lượng nhiều nhất với 158 loài mới. Những phát hiện này chứng minh rằng khu vực vẫn là mảnh đất màu mỡ cho khám phá khoa học và là một "điểm nóng" về đa dạng loài; đồng thời cảnh báo về các hoạt động phá hủy thiên nhiên, môi trường sống khiến nhiều loài đã tuyệt chủng trước khi chúng được phát hiện.
Theo báo cáo, một số loài mới tại Việt Nam được các nhà khoa học thế giới đánh giá cao như: Loài thu hải đường BEGONIA CATBENSIS được phát hiện ở các đảo đá vôi của Vườn Quốc gia Cát Bà. Loài này được tìm thấy trên các thành tạo núi đá vôi. Hiện có 21 loài thu hải đường được công nhận ở Việt Nam. Loài thu hải đường BEGONIA CATBENSIS này được cho là chỉ còn dưới 200 cá thể trưởng thành trong một phạm vi phân phối rất hạn chế. Loài này được coi là hiếm, xếp hạng bảo tồn ở mức Nguy cấp.
Loài ếch mới QUASIPAA TAOI được ghi nhận trên Núi Ngọc Linh, đỉnh núi cao nhất miền Trung Việt Nam với 2.598m. Chúng được tìm thấy ở đầu nguồn của đá suối trong rừng thứ sinh thường xanh ở khoảng 1.500m so với mực nước biển trung bình. Loài ếch mới này đại diện cho loài thứ 13 của chi ếch gai trên thế giới, trong đó riêng Việt Nam đã phát hiện 6 loài này. Phát hiện này đã khẳng định tính đa dạng rất cao của các loài lưỡng cư đặc hữu ở dãy núi Trung Trường Sơn của Việt Nam. Các nhà nghiên cứu xếp loại chúng ở mức là Gần bị đe dọa trong Danh sách đỏ của Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN)...
Rắn tia nắng (Xenopeltidae), được đặt tên theo vảy óng ánh của chúng, được phân bố rộng rãi khắp Đông Nam Á. Loài rắn tia nắng INTERMEDIUS mới được phát hiện tại một địa phương trong khu vực Trung Trường Sơn của Việt Nam. Các nhà nghiên cứu đã thu thập một số mẫu vật trong năm 2006 từ rừng thường xanh ở miền núi khu vực tỉnh Kon Tum, ở độ cao từ 1.500m và 2.500m so với mực nước biển trung bình. Nghiên cứu chỉ ra rằng, khu vực Tây Nguyên của Việt Nam có sự đa dạng cao về các loài lưỡng cư và bò sát, bao gồm nhiều loài bí ẩn (không thể phân biệt về mặt hình thái nhưng khác biệt về mặt di truyền). Các nghiên cứu gần đây đã tiết lộ nhiều loài mới cho khoa học ở khu vực này.
Ông Nguyễn Văn Trí Tín, Quản lý Chương trình Bảo tồn Động vật Hoang dã của WWF - Việt Nam cho biết, những loài mới này đang chịu áp lực rất lớn từ nạn phá rừng, môi trường sống bị phá hủy, ô nhiễm, dịch bệnh lây lan do các hoạt động của con người, phải cạnh tranh với các loài xâm lấn và chịu tác động tàn phá của nạn buôn bán động vật hoang dã bất hợp pháp. Nhiều loài đã tuyệt chủng trước khi chúng được phát hiện. Do đó, cần có những hành động cấp bách để ngăn chặn sự tuyệt chủng các loài hoang dã bằng cách bảo vệ sinh cảnh sống của chúng, hỗ trợ khôi phục quần thể các loài tự nhiên, tái hoang dã và ngăn chặn các hoạt động săn bắt mua bán động vật hoang dã trái phép.
Ngăn chặn đà tuyệt chủng
Để ngăn chặn đà suy giảm dẫn đến tuyệt chủng các loài tại Việt Nam, Hợp phần Bảo tồn Đa dạng sinh học do Cơ quan Hợp tác phát triển Hoa Kỳ (USAID) tài trợ đang thúc đẩy hoạt động "tái hoang dã" tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên trên cả nước. Theo đó, cơ quan này đã tiến hành một số phân tích khoa học chuyên sâu đối với một số loài động vật, đặc biệt là ở vùng Trung Trường Sơn của Việt Nam, nhằm hiểu thông tin cần thiết để tạo ra một quần thể có khả năng sinh sản, sau khoảng 10 - 15 năm sẽ tái thả trở lại tự nhiên. Hợp phần dự kiến xây dựng các cơ sở cứu hộ động vật với những điều kiện cần thiết để chăm sóc một số loài ưu tiên trong điều kiện nuôi nhốt, đặc biệt là ở miền Trung của Việt Nam.
Đến nay, Việt Nam đã tham gia và đóng góp tích cực vào các điều ước quốc tế liên quan (Công ước đa dạng sinh học; Công ước Ramsar; Công ước quốc tế về buôn bán các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp; Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học, Nghị định thư Nagoya về tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích, Nghị định thư bổ sung Nagoya-Kuala Lumpur...).
Bên cạnh đó, các cam kết quốc tế, yêu cầu từ thực tiễn trong nước đã được luật hóa trong hệ thống các văn bản gồm: Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Quy hoạch, Luật Lâm nghiệp, Luật Thủy sản, trong Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Chiến lược đa dạng sinh học quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và nhiều văn bản liên quan khác.
Thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, tổ chức liên quan tập trung nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; nghiên cứu, xây dựng các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên để góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững; văn bản pháp luật về nghĩa vụ pháp lý và bồi thường trong hoạt động quản lý an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen....
Cùng với đó, Bộ tiếp tục kiện toàn và tăng cường năng lực hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, đội ngũ cán bộ quản lý về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học nhằm thực hiện hiệu quả công tác quản lý đa dạng sinh học; nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các bộ, ngành có chức năng quản lý liên quan về bảo tồn đa dạng sinh học; tăng cường năng lực các đơn vị chuyên môn cấp tỉnh về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về đa dạng sinh học và các tổ chức chính trị-xã hội, các đối tác phát triển trong lĩnh vực bảo tồn đa dạng sinh học.
Bảo tồn loài mới ở Việt Nam - Bài cuối: Khẩn cấp bảo vệ các sinh cảnh sống Đa dạng sinh học của Tiểu vùng sông Mekong mở rộng, trong đó Việt Nam được đánh giá có mức độ đa dạng sinh học cao nhất, đang phải đối mặt với áp lực to lớn từ phát triển kinh tế và tăng trưởng dân số của con người, dẫn đến nạn phá rừng, ô nhiễm và khai thác quá mức tài nguyên...