Viêm gân bánh chè
Gân bánh chè ( khớp gối) là cấu trúc giải phẫu nối giữa xương bánh chè và xương cẳng chân ( xương chày). Viêm gân bánh chè thường xảy ra khi có sự vận động quá mức ở bộ phận này.
Vì sao viêm gân bánh chè?
Viêm gân bánh chè là một bệnh lý của gân nên có nhiều nguyên nhân xảy ra như: Tình trạng quá tải của gối (vận động liên tục, kéo dài, khởi động trước khi tập luyện không đủ thời gian) Do chấn thương T.uổi tác (thường gặp ở người trung niên). Bệnh cũng có thể gặp ở người có đặc điểm giải phâu bât thường như xương bánh chè lên cao, thê trạng quá béo, tình trạng hai chân không khỏe bằng nhau dân đên sự quá tải ở môt chân…
Ngoài ra, còn do một số yếu tố bệnh lý (dễ gặp ở người có bệnh lý hệ cơ xương khớp mạn tính) như: gút, viêm khớp dạng thấp…
Dấu hiệu nhận biết
Gân bánh chè thường bị viêm ở tại điểm bám vào xương bánh chè. Dấu hiệu chính là đau. Đau ở vị trí trước gối nơi gân bị viêm và có đặc điểm sau: Đau âm ỉ và ngày càng tăng dần, nhất là khi vân đông gâp duôi gôi như khi thực hiên các đông tác: leo dốc, lên câu thang, ngôi xôm… Đau có tính chất chu kỳ: ban đầu đau liên tục, sau đó đến đau mạnh, giảm dần rồi lại tăng lên. Bệnh tiến triển có thể kéo dài nhiều tháng, gây cơn đau liên tục có thể làm cho bệnh nhân khó ngủ vào ban đêm.
…Và các biến chứng
Khi bị viêm gân bánh chè không được điều trị hoặc điều trị không đúng mức và người bệnh cố gắng làm việc có thể gây tổn thương gân hơn nữa sẽ xảy ra biến chứng như:
Video đang HOT
Yếu cơ chân. Do xương bánh chè che mặt trước khớp gối. Mặt trước xương này là gân cơ tứ đầu đùi, hai bên có các dây chằng giúp cho gối vừa cử động linh hoạt vừa vững chắc. Nếu viêm nhiễm sẽ gây các cơ bắp đùi (cơ bốn đầu) và cơ bắp chân có thể suy yếu, bệnh nhân cử động khó khăn, hạn chế co duỗi và vận động.
Đau đầu gối mạn tính. Viêm gân bánh chè không được điều trị đúng và dứt điểm sẽ dẫn đến đau đầu gối kéo dài.
Đứt gân. Đây là biến chứng nguy hiểm ở một số trường hợp do viêm rất nặng có thể gặp đứt gân bánh chè hay đứt gân cơ tứ đầu đùi. Triệu chứng khi đó biểu hiện bằng đau tăng đột ngột sau một cú nhảy… đồng thời mất hoàn toàn chức năng vận động của cơ.
Vì vậy, nêu các triêu chứng đau không giảm hoặc nặng hơn, ảnh hưởng đên đi lại, sinh hoạt hoặc xuât hiên tình trạng sưng nê, tây đỏ thì cân đến cơ sở y tế có chuyên khoa xương khớp để được khám và tư vấn.
Theo Sức khỏe đời sống
Những nguy cơ từ viêm khớp dạng thấp
Viêm khớp dạng thấp (VKDT) là bệnh khớp mạn tính thường gặp nhất trong số các bệnh khớp viêm.
Tuy không gây t.ử v.ong, nhưng VKDT gây mất chức năng vận động của khớp, khiến bệnh nhân nhanh chóng trở nên tàn phế với rất nhiều biến chứng, và ảnh hưởng đến t.uổi thọ của bệnh nhân.
Nhiều hệ lụy
VKDT được coi là bệnh tự miễn với nhiều yếu tố ảnh hưởng như môi trường, yếu tố cơ địa, di truyền, hoặc yếu tố hormon. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa t.uổi, nhưng thường gặp nhiều ở t.uổi từ 30-50 t.uổi.
Biểu hiện đặc trưng là hiện tượng viêm các khớp ngoại biên, cụ thể là viêm màng hoạt dịch, dẫn đến hiện tượng hủy khớp, dính khớp. Các khớp tổn thương thường là các khớp ở bàn tay, bàn chân, khớp khuỷu, khớp gối, khớp cổ chân..., cả hai bên.
Tình trạng viêm khớp diễn biến kéo dài, có những đợt tiến triển cấp tính và có xu hướng tăng dần. Tuy nhiên, do chưa nhận thức đúng về bệnh, khi thấy đau khớp, người bệnh thường coi đó chỉ là các hiện tượng nhức mỏi khớp thông thường, do thời tiết, do lao động nặng... mà không đi khám để được phát hiện bệnh kịp thời.
Chính điều này làm cho cơ hội có thể can thiệp điều trị nhằm bảo toàn chức năng vận động của khớp bị bỏ qua, khiến cho tình trạng bệnh ngày càng xấu đi, đến khi khớp đã bị hủy hoại nặng, dính khớp thì dù có được điều trị tích cực cũng khó lòng phục hồi chức năng vận động của khớp.
Ngoài ra trong bệnh VKDT còn có các biểu hiện toàn thân (gầy sút, mệt mỏi, thiếu m.áu) cũng như biểu hiện về tim mạch và nhiều cơ quan khác.
Việc điều trị thuốc không đúng, đặc biệt là lạm dụng các thuốc điều trị triệu chứng như các chế phẩm có corticoid, khiến cho bệnh nhân có thể có rất nhiều tai biến (tổn thương dạ dày, tá tràng, tăng huyết áp, đái tháo đường, loãng xương, nhiễm khuẩn, suy thượng thận...), khiến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân giảm sút, t.uổi thọ trung bình giảm nhiều so với người không mắc bệnh VKDT.
Nhiều người còn chủ quan với viêm khớp dạng thấp.
Khắc phục bằng điều trị sinh học
Ngày nay, mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực và áp dụng nhiều thành tựu y học, VKDT vẫn là bệnh chưa thể điều trị khỏi hoàn toàn. Mục đích cao nhất của điều trị VKDT là đạt được sự lui bệnh lâm sàng, giảm đau, giảm các triệu chứng khó chịu, cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
Trước đây các loại thuốc như Diclofenac, Ibuprofen, Meloxicam... hay corticoid là những loại thuốc chính được sử dụng để giảm đau và viêm tức thì giúp bệnh nhân cảm thấy giảm bệnh. Tuy nhiên, hai nhóm này thực tế không thật sự đẩy lui bệnh hoàn toàn, các tổn thương khớp vẫn tiếp tục phát triển, bệnh vẫn tiến triển và dần dần trở nên tàn phế, cứ ngừng thuốc là khớp lại sưng đau.
Ngoài ra, thuốc tạo tác dụng phụ như: Viêm loét dạ dày, tá tràng, c.hảy m.áu dạ dày - ruột, thủng dạ dày - ruột, các tác dụng phụ lên hệ tim mạch, thận gan... Với những trường hợp nặng, khi khớp mất chức năng, có thể phẫu thuật thay khớp nhân tạo.
Tuy nhiên, phẫu thuật không làm thay đổi diễn tiến bệnh, đặc biệt là VKDT có tổn thương rất nhiều khớp. Tuy nhiên, các thuốc điều trị sinh học đã tạo ra cuộc cách mạng trong việc điều trị VKDT nhờ vào hiệu quả cao, tác dụng nhanh, và dung nạp tốt hơn.
Đây là cách duy nhất để tránh tổn thương khớp không hồi phục, cải thiện triệu chứng, hạn chế tàn phế và nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Các thuốc này nói chung khá an toàn nếu được theo dõi, quản lý tốt. Trong mọi trường hợp người bệnh cần tuân thủ điều trị, tái khám đều đặn và kết hợp chặt chẽ với thầy thuốc.
Nhiều người còn chủ quan với viêm khớp dạng thấp Một số nghiên cứu cho thấy, sau 5 năm bị bệnh, chỉ 40% số bệnh nhân còn chức năng khớp bình thường, 16% bị mất chức năng nghiêm trọng, tỷ lệ mất khả năng làm việc gặp ở 40 - 60% số bệnh nhân VKDT khi mắc bệnh trên 10 năm, đời sống của những bệnh nhân VKDT nặng thường bị rút ngắn khoảng 7 năm đối với người bệnh là nam giới và 4 năm đối với bệnh nhân nữ so với t.uổi thọ trung bình của dân chúng.
Theo PNO
'Bắt mạch' người kém 'chuyện ấy' Làm thế nào để biết được bạn sẽ kém "chuyện ấy" khi chưa từng "yêu"? S.ex một cách thường xuyên để rồi nhận ra mình giỏi hay dốt "chuyện ấy" là một việc bình thường. Nhưng làm sao để không cần "thử" cũng nhận ra mình có khả năng "yêu" tốt hay không mới là vấn đề. Dựa trên thời gian tư vấn...