Vì sao nhu cầu nhân lực cho ngành công nghệ thông tin sẽ tiếp tục cao trong nhiều năm tới?
Được xem là lĩnh vực “xương sống” len lỏi, kết nối ở tất cả lĩnh vực trong đời sống, công nghệ thông tin được dự đoán sẽ là ngành lên ngôi trong nhiều năm tới nhưng đang phải đối diện với tình trạng khan hiếm nhân lực nghiêm trọng.
Tiềm năng lớn nhưng khó tìm nhân sự
Công nghệ thông tin (CNTT) vẫn luôn được xem là ngành học của tương lai. Thậm chí, đại dịch Covid-19 và quá trình chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ là những chất xúc tác để ngày càng nhiều doanh nghiệp, tổ chức nhận ra tầm quan trọng của CNTT trong hoạt động hàng ngày.
Ông Nguyễn Mạnh Dũng (Shark Dũng), Nhà sáng lập Quỹ đầu tư Do Ventures nhận định trong 2 năm Covid-19 diễn ra, các doanh nghiệp phải đáp ứng nhu cầu mới của người tiêu dùng và phải triển khai việc sử dụng nhiều nhân sự để phát triển nền tảng
“Cho dù doanh nghiệp trong lĩnh CNTT, trong lĩnh vực mới hoặc với bất kỳ lĩnh vực nào, chúng ta cũng cần nhân sự trong lĩnh vực CNTT, ít nhất phải hiểu để vận hành và xử lý thông tin. Những công ty tôi đầu tư đều có nhu cầu tuyển dụng nhân sự CNTT. Ở góc độ cá nhân, tôi nghĩ xu thế đó còn tiếp diễn một thời gian dài nữa”, đại diện Do Ventures đánh giá.
Tuy nhiên trái với nhu cầu nhân sự CNTT đang gia tăng, nguồn cung lao động trong mảng này tại Việt Nam vẫn đang thiếu trầm trọng dù mức lương được trả không hề thấp. Báo cáo về thị trường IT Việt Nam của nền tảng tuyển dụng TopDev cho thấy năm 2021, Việt Nam cần khoảng 450.000 nhân lực trong ngành CNTT nhưng số lượng lập trình viên hiện tại mới chỉ đạt khoảng 430.000 người.
Có tới hơn 40% các doanh nghiệp CNTT thừa nhận họ đang rất khó khăn để tìm kiếm nhân sự cho các mảng quan trọng như quản lý, giám sát và kiến trúc hệ thống dù mức thu nhập cho những nhân sự dạng này vào khoảng 1.300 USD cho đến hơn 2.200 USD/tháng, cao hơn mặt bằng chung của các ngành khác khá nhiều.
Nâng cao đào tạo để đáp ứng nhu cầu thực tế
Vài năm trở lại đây, nhiều đại học tại Việt Nam đã và đang tích cực chuyển mình để đào tạo ra thế hệ sinh viên CNTT không chỉ mạnh về số lượng mà còn cả chất lượng. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng Ban Đào tạo, ĐHQGHN cho biết tại ĐHQGHN đã xuất hiện nhiều ngành mới và đặc biệt, quy mô sinh viên những ngành Kỹ thuật, Công nghệ tăng lên tới 30% thay vì chỉ 9% như trước đây.
Video đang HOT
Tại Trường Quốc tế, trực thuộc ĐHQGHN, từ năm 2022, một số chuyên ngành mới của CNTT đã được đưa vào tuyển sinh, với nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Với ngành Công nghệ thông tin ứng dụng, sinh viên sẽ được trải nghiệm chương trình đào tạo mang tính liên ngành cao, kết hợp giữa công nghệ thông tin, an toàn không gian số, hệ thống nhúng và công nghệ IoT (Internet of Things).
Trong khi đó, ở ngành Công nghệ tài chính và Kinh doanh số (FinTech and Digital Business), sinh viên theo học sẽ được trang bị các kiến thức và kĩ năng tích hợp về công nghệ và kinh doanh để có thể làm việc tốt trong các lĩnh vực mới trong kỉ nguyên chuyển đổi số như công nghệ tài chính, tiếp thị số,…
Hay với ngành Kỹ thuật hệ thống công nghiệp và Logistics (IE – Industrial Engineering and Logistics Systems) , sinh viên sẽ được đào tạo các kiến thức về công nghệ kỹ thuật, phương pháp và công cụ quản lý từ nghiên cứu, thiết kế, phát triển sản phẩm dịch vụ, đến quản trị chuỗi cung ứng, quản trị sản xuất và hậu cần,…
Điểm chung là cả 3 chuyên ngành này đều được tích hợp với chương trình Thạc sĩ, do đó sinh viên chỉ cần học tiếp 1 năm sau khi tốt nghiệp cử nhân là sẽ nhận bằng Thạc sĩ. Đặc biệt, cách tiếp cận đào tạo của chương trình dựa trên các dự án nhóm, thực hành, thí nghiệm, trải nghiệm thực tế tại các doanh nghiệp ngay từ những năm đầu. Cách tiếp cận này giúp sinh viên sớm nắm bắt được các kỹ năng làm việc nhóm, giải quyết vấn đề trong thế giới thực, thuộc nhiều ngành công nghiệp khác nhau.
Phụ huynh và thí sinh cần tư vấn thêm thông tin tuyển sinh xin vui lòng liên hệ:
Bộ phận tuyển sinh, Phòng công tác sinh viên
Nhà G8, 144 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội hoặc Nhà C, Làng Sinh viên HACINCO, 79 Ngụy Như Kon Tum, Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội.
Website: https://ts.isvnu.vn
Hotline: 024. 3555 3555 | 0983 372 988 | 0379 884 488 | 0989 106 633 hoặc trực tiếp inbox Fanpage Trường Quốc tế tại https://www.facebook.com/truongquocte.vnuis
Chính phủ phải làm gì để có thể 'lên mây'?
Việc chuyển dịch lên điện toán đám mây là một thách thức không nhỏ với các chính phủ, xét tới hệ thống công nghệ thông tin đồ sộ và hạn chế về bảo mật, ngân sách, tổ chức.
Điện toán đám mây là mô hình trong đó người dùng mua nguồn lực công nghệ thông tin (CNTT) dưới dạng dịch vụ, dùng đến đâu trả tiền tới đó. Những năm gần đây, xu hướng này nhận được sự quan tâm của cả khu vực công và tư nhân. Giống như các tiện ích như điện, nước, đám mây cho phép người dùng tiếp cận nguồn lực từ bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào, theo dõi lượng sử dụng và mở rộng công suất mà không cần đầu tư số tiền lớn vào phần cứng hay phần mềm. Nhờ vậy, đám mây nâng cao hiệu quả CNTT, tiết kiệm được khoảng 20-30% ngân sách.
Chính phủ khắp thế giới đã nhận ra lợi ích tiềm tàng của đám mây trong chuyển đổi cách đầu tư, triển khai và tiếp cận nguồn lực CNTT. Chính sách "Cloud First" của Mỹ yêu cầu tất cả các cơ quan liên bang tích hợp ít nhất 3 dịch vụ lên đám mây. Chiến lược điện toán đám mây liên bang do Nhà Trắng ban hành năm 2011 ước tính 20 tỷ USD, tương đương 1/4 chi tiêu CNTT cả nước - có thể phân bổ lại cho các giải pháp điện toán đám mây. Tại châu Âu, cựu Phó Chủ tịch Ủy ban Châu Âu tuyên bố khu vực này phải chủ động với đám mây, không dừng lại ở mức độ "thân thiện". Khu vực công châu Á cũng ngày càng đón nhận điện toán đám mây. Chẳng hạn, Ấn Độ tìm cách dùng công nghệ này để cung cấp các dịch vụ công trực tuyến.
Với các chiến lược đã vạch ra, cơ quan chính phủ phải lựa chọn đưa thành phần nào lên đám mây và trong mỗi trường hợp, lại phải xác định dịch vụ đám mây và mô hình triển khai phù hợp. Họ cũng phải tạo ra quy trình ngân sách linh hoạt hơn, hỗ trợ các danh mục đầu tư liên quan đến đám mây, đồng thời phải có tư duy mới để nhận ra đầy đủ lợi ích của điện toán đám mây.
Lựa chọn mô hình dịch vụ
Đối mặt với hệ thống CNTT hiện tại và cân nhắc nên chuyển công việc nào lên đám mây, lựa chọn mô hình nào, nhiều Giám đốc CNTT (CIO) tự hỏi nên bắt đầu từ đâu. Không có câu trả lời chính xác cho tất cả mọi người. Mô hình dịch vụ phù hợp dựa vào từng yêu cầu cụ thể của mỗi công việc (workload) bên trong tổ chức, chẳng hạn quản trị tài chính hay quản trị nhân lực.
Thay vì xem xét chi tiết hàng ngàn đầu việc trong danh mục, một tổ chức nên gom chúng thành 30 đến 50 nhóm khác nhau. Chẳng hạn, cộng tác và nhắn tin là một workload bao gồm toàn bộ chức năng liên quan tới email, lịch, nhắn tin, không gian làm việc chung. Bước tiếp theo là đánh giá hiệu suất của giải pháp hiện tại của mỗi workload, nó có đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai hay không. Ví dụ, giải pháp có hoạt động ổn định hàng ngày không, có dễ thay đổi trước các yêu cầu mới không, có thể mở rộng nhah chóng để giải quyết nhu cầu tăng bất thường không, người dùng cuối có thỏa mãn không? Những workload đạt điểm số thấp là những ứng viên phù hợp nhất để chuyển dịch lên mây.
Sau đó, tổ chức phải xác định mô hình dịch vụ phù hợp cho mỗi workload: IaaS, PaaS hay SaaS. Nếu tổ chức ưu tiên tốc độ triển khai và sự linh hoạt hơn khả năng tùy biến, họ nên chọn SaaS (thuê dịch vụ phần mềm). Với những việc không thể chuyển sang SaaS, tổ chức có thể nhìn sang PaaS (thuê nền tảng) hoặc IaaS (thuê hạ tầng hoàn chỉnh).
Lựa chọn cách thức triển khai
Một khi chọn được mô hình phù hợp, tổ chức phải xác định cách triển khai đúng đắn cho mỗi workload (đám mây công cộng, riêng tư, kết hợp). việc triển khai về cơ bản dựa trên các yêu cầu liên quan tới bảo mật CNTT và khả năng quản lý. Các nhà phân tích cho rằng những lo ngại liên quan đến hai yếu tố này là tác nhân chính dẫn đến chần chừ ứng dụng đám mây, ngay cả khi có chỉ thị phải chuyển sang đám mây.
Đám mây riêng tư (private) do một tổ chức duy nhất vận hành. Chúng có thể được bản thân tổ chức hay do bên thứ ba quản lý. Đám mây công cộng (public) mở cho toàn bộ công chúng hay một tổ chức công nghiệp lớn, được sở hữu và quản lý bởi một nhà cung cấp dịch vụ đám mây. Đám mây kết hợp (hybrid) lai giữa hai mô hình triển khai phía trước. Một loại nữa là đám mây cộng đồng (community), bao gồm hạ tầng được chia sẻ giữa vài tổ chức và hỗ trợ một nhóm người dùng cụ thể. Chúng có thể do tổ chức hay bên thứ ba quản lý.
Thực tế, trong nhiều trường hợp, một đám mây riêng tư sẽ an toàn hơn và dễ quản lý hơn hệ thống CNTT khu vực công hiện tại vì các tổ chức có thể phát triển các tính năng quản lý và bảo mật ngay từ đầu, thay vì bổ sung chúng vào hệ thống có sẵn.
Linh hoạt trong ngân sách và tài trợ
Các cơ quan nhà nước phải đưa ra lựa chọn về chiến lược điện toán đám mây dù phải đối mặt với các chu kỳ rót vốn và ngân sách cứng nhắc. Những người ra quyết định phải bảo toàn các khoản tài trợ trước nhiều năm, hạn chế khả năng bị chuyển hướng sang các kế hoạch khác. Trong trường hợp ngân sách chỉ định cho các dự án cá nhân hơn là tổ chức hay phòng ban, rất khó để đầu tư vào các nền tảng hay kiến trúc CNTT mới để giảm chi phí hoạt động cho các dự án tương lai.
Trong mỗi kế hoạch ứng dụng đám mây, mỗi tổ chức phải tìm ra những cách sáng tạo để xử lý những hạn chế về ngân sách hiện tại. Chẳng hạn, yêu cầu xin vốn để triển khai CNTT quy mô lớn có thể bao gồm chi phí thi hành một đám mây riêng tư cũng như chi phí của các dự án nhỏ hơn sẽ tận dụng được lợi thế của đám mây. Các tổ chức có thể cân nhắc làm việc với các nhà sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ CNTT về vấn đề tài trợ, giúp giảm chi phí cần thiết để chuyển dịch vụ công lên đám mây.
Việc chuyển lên đám mây cần sự đồng thuận cao bên trong chính phủ và hợp tác chặt chẽ giữa các CIO, lãnh đạo tài chính và nhà sản xuất CNTT. CIO khu vực công nên tận dụng cơ hội để làm mới quan hệ với đối tác sản xuất, theo đuổi các thỏa thuận với những nhà cung ứng mới để hỗ trợ mô hình đám mây. Trong khi đó, các cơ quan phụ trách ngân sách nên phối hợp và điều phối việc chuyển đổi sang đám mây, thu thập những yêu cầu, nhu cầu từ các cơ quan chức năng và làm việc với nhà sản xuất CNTT để dẫn dắt việc phát triển các giải pháp.
Tư duy mới để đón nhận đám mây
Xét về khía cạnh kỹ thuật khi chuyển dịch từ CNTT truyền thống sang đám mây, nhân viên CNTT không cần phải mua sắm phần cứng, phần mềm hay lắp đặt, cấu hình, thử nghiệm hệ điều hành, ứng dụng nữa. Thay vào đó, họ chỉ cần lựa chọn cấu hình phù hợp nhát từ danh sách dịch vụ. Vì vậy, những kỹ năng như cấu hình phần mềm, quản trị hệ thống CNTT không còn được ưu tiên bằng các kỹ năng quản trị hợp động, quản trị hiệu suất...
Chuyển dịch lên đám mây không chỉ cần đến những kỹ năng mới mà còn mở ra một cách thức quản trị, triển khai nhân viên CNTT mới và quy trình mới khi vận hành. Điện toán đám mây tập trung vào tận dụng dịch vụ CNTT. Thay đổi tư duy và hành vi từ nhấn mạnh sở hữu tài sản sang nhấn mạnh tối ưu hóa dịch vụ không phải chuyện nhỏ và cần đến cách tiếp cận có tính hệ thống, bao gồm đào tạo, khuyến khích và mô hình mẫu.
Nói tóm lại, khi chuyển lên đám mây, các tổ chức của khu vực công sẽ có thể giải phóng chi phí CNTT để tái đầu tư vào các hoạt động hay mục tiêu quốc gia khác. Với các hệ thống nhanh hơn và thời gian triển khai ngắn hơn, họ sẽ cung cấp dịch vụ công tốt hơn cho công dân, cũng như phục vụ các hoạt động của chính phủ tốt hơn. Tuy nhiên, để đạt được những lợi ích to lớn này, cần phải giải quyết nhiều thách thức như đã đặt ra ở trên.
Phát hiện lỗ hổng bảo mật trên Microsoft khiến người dùng bị chiếm quyền kiểm soát Ngày 16/8, Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có cảnh báo đơn vị chuyên trách công nghệ thông tin của các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, ngân hàng, tổ chức tài chính và hệ thống các đơn vị chuyên trách an toàn thông tin về 8 lỗ hổng bảo mật ảnh...