Vẻ đáng yêu, bụ bẫm của họ sóc ở môi trường tự nhiên
Họ sóc có tên khoa học là Sciuridae. Đây là họ lớn trong bộ gặm nhấm. Chúng bao gồm sóc cây, sóc đất, sóc chuột, Macmot và sóc bay thật sự.
Họ sóc phân bố rộng rãi trên khắp thế giới ngoại trừ Australasia (bao gồm Australia, New Zealand, đảo New Guinea và các quần đảo cận kề trên Thái Bình Dương) và châu Nam Cực.
Các loài sóc còn sinh tồn được chia ra thành 5 phân họ, với khoảng 50 chi và gần 280 loài.
Họ sóc nói chung có thân hình mảnh dẻ với đuôi rậm rạp và mắt to.
Bộ lông của chúng thường rất mềm và mượt, mặc dù ở một vài loài có thể là dày hơn. Màu lông của các loài dạng sóc biến động khá mạnh giữa các loài và thậm chí là ngay trong phạm vi loài.
Các chân sau nói chung dài hơn các chân trước, mỗi chân có 4 hay 5 ngón. Chân trước có ngón cái, mặc dù nó kém phát triển. Các chân của động vật họ sóc cũng có gan bàn chân mềm ở mặt dưới.
Macmot châu Mỹ.
Chúng chủ yếu là động vật ăn cỏ, với thức ăn là hạt và quả, nhưng nhiều loài ăn cả côn trùng và thậm chí là các loài có xương sống nhỏ.
Video đang HOT
Bộ răng của loài sóc tuân theo kiểu răng điển hình của động vật gặm nhấm, với các răng cửa lớn có tác dụng gặm nhấm và chúng phát triển ra trong suốt cả cuộc đời. Các răng hàm có tác dụng nhai thì nằm cách các răng cửa một khoảng trống lớn.
Các loài sóc nói chung có thị lực tốt, và điều này đặc biệt quan trọng cho các loài sống trên cây. Nhiều loài cũng có hệ thống cảm quan, với các ria mép hay các lông trên các chân.
Chúng sinh sản 1 đến 2 lần trong năm, với số lượng con non sinh ra không đồng nhất sau 3-6 tuần, phụ thuộc vào từng loài.
Các con non sinh ra không có lông, không răng, mù và yếu ớt.
Đa phần ở họ sóc con mẹ sẽ chịu trách nhiệm chăm sóc con non.
Sóc bay lùn Nhật Bản.
Các loài sinh sống trên mặt đất nói chung có tính cộng đồng, thường sinh sống thành bầy. Tuy nhiên, các loài sống trên cây thì phần lớn là đơn độc.
Sóc chuột phương Đông.
Theo Lương Ngọc/Khoa học & Phát triển
Chiêm ngưỡng quả đầu 'hổ báo' của đại bàng Philippines
Đại bàng Philippines (đại bàng khổng lồ Philippines) có tên khoa học là Pithecophaga Jefferyi. Nó là một trong những loài chim cao, lớn, hiếm và mạnh mẽ nhất thế giới.
Nó được phát hiện vào năm 1896 bởi nhà thám hiểm và nhà tự nhiên học người Anh - John Whitehead.
Hình ảnh của đại bàng Philippines được ví với một sinh vật thần thoại là Griffin.
Đại bàng Philippine có bộ lông màu nâu đậm và trắng.
Đại bàng trưởng thành có chiều cao từ 86-102cm, nặng 4,7-8kg. Con mái thường lớn hơn con trống.
Chân của đại bàng Philippine to, có màu vàng nổi bật với vuốt màu đen. Mỏ màu xám hơi xanh cùng với đôi mắt xanh xám giống chim ưng.
Sải cánh của đại bàng Philippine dài từ 184-220cm, đuôi dài 50cm.
Đây là loài chim đặc hữu ở Philippines, được tìm thấy ở phía Đông các đảo chính là Luzon, Samar, Leyte và Mindanao (số lượng nhiều nhất ở Mindanao).
Đại bàng Philippine sống ở vùng rừng rậm nhiệt đới núi cao và dốc với độ cao từ 1.800m trở lên.
Thức ăn chủ yếu của đại bàng Philippine là khỉ, chim, cáo, cá, thằn lằn, rắn, lợn con, chó nhỏ...
Năm 2010, chúng bị liệt kê vào loài cực kỳ nguy cấp với số lượng chỉ từ 180 tới dưới 500 con còn lại ở Philippines.
Pháp luật ở Philippines cũng quy định phạt tù rất nặng đối với những hành vi săn bắt loại đại bàng này.
Tuổi thọ trung bình cho một con đại bàng Philippines ở môi trường tự nhiên được ước tính là 30-60 năm.
Đại bàng Philippine mái bước vào tuổi sinh sản lúc 5 tuổi còn con trống là 7 tuổi.
Đại bàng Philippine thường sống thành cặp, khi con còn lại chết đi chúng thường sẽ kiếm con khác thay thế.
Đại bàng Philippine thường đẻ 1 quả trứng duy nhất và ấp từ 58-68 ngày. Cả 2 sẽ cùng nhau chăm sóc con nhỏ. Đại bàng non sẽ được cha mẹ của chúng chăm sóc 20 tháng trước khi ra ở riêng.
Vẻ ngoài độc lạ của loài sóc có nguồn gốc ở Ấn Độ Sóc lớn Ấn Độ có tên khoa học Ratufa Indica. Nó là một loài sóc cây lớn trong chi Ratufa có nguồn gốc từ Ấn Độ. Hiện loại sóc này phân bố khá rộng rãi ở khu vực Nam Á. Sóc lớn Ấn Độ có bộ lông pha lẫn giữa màu đen, đỏ hung và màu be. Sóc lớn Ấn Độ có chiều...