Vào nơi học sinh ăn cơm chan… nước suối
Tam Hợp, một trong 5 xã chưa có điện của huyện Tương Dương (Nghệ An), đường khó đi “như đường lên cổng trời”. Nơi thâm sơn cùng cốc, nhiều em học sinh người Mông, người Poọng ăn cơm chan…nước suối, nước lã Học bài dưới ánh đèn pin.
Bật khóc giữa lòng hồ
Mưa giăng kín mặt sông. Ngược dòng Nậm Nơn, lênh đênh trên lòng hồ thủy điện Bản Vẽ mùa này rất nguy hiểm.
Sáng sớm thức dậy, tôi rủ Mạc Nguyên Bí thư Huyện Đoàn Tương Dương vào xã Hữu Khuông thăm thầy cô “cắm bản”, nhưng lên đến Yên Na bỗng khựng lại.
Từ núi, lũ lao ra. Đất đá ven đường rơi tung tóe, chắn lối đi. “Mưa to quá!”, Mạc Nguyên nói, nhìn ra mặt sông thức giấc. Mực nước lòng hồ lên nhanh. Thủy điện bản Vẽ phải mở cửa xả lũ số 1. Hơi nước bốc lên nghi ngút, thung lũng mù sương.
Dẫn đầu đoàn cán bộ huyện Tương Dương vào Hữu Khuông kiểm tra giáo dục, tuần trước, Phó chủ tịch huyện Vi Tân Hợi suýt bị đắm thuyền trên sông Nậm Nơn. “Trong một buổi chiều, chúng tôi gặp hai trận lốc xoáy, hút chết!”, anh Vi Hợi kể.
Từ thị trấn Hòa Bình vào các xã rẻo cao Hữu Khuông, Luân Mai, Mai Sơn, phương tiện duy nhất là thuyền. Lòng sông, lòng hồ mênh mông nước, khung cảnh êm đềm thơ mộng nhưng đầy ẩn họa.
“Chiều muộn, chúng tôi lên thuyền xuôi dòng. Vừa rời Hữu Khuông, bất ngờ gặp trận lốc xoáy tràn qua, thuyền chòng chành nhưng sợ trời tối nên vẫn phải đi tiếp”, anh Hợi kể.
Cách đập thủy điện Bản Vẽ khoảng 2km, một trận lốc khác mạnh hơn tấn công. Gió giật cấp 7, cấp 8, mưa như trút. Xung quanh bầu trời đen kịt, tối như bưng. Chiếc thuyền dài 10m, rộng 1m loay hoay giữa vùng gió xoáy. Một cô giáo sợ quá, khóc toáng lên.
Trưởng đoàn Vi Tân Hợi lệnh cho anh em cởi hết quần áo, mặc áo phao, chuẩn bị ứng phó với tình huống xấu nhất.
“Nếu thuyền bị đắm, anh em phải dìu nhau vào bờ, riêng cô giáo phải có 2 người kèm hai bên”, Hợi ra lệnh.
Gió quất liên hồi. Bác lái thuyền Lương Văn Thắng (50 tuổi, quê ở xã Mỹ Lý, huyện Tương Dương) từng 25 năm vượt dòng Nậm Nơn, là người lão luyện kinh nghiệm sông nước, bật khóc.
“Khúc sông, cũng là lòng hồ thủy điện Bản Vẽ, rộng chừng 100m nhưng lúc mưa to gió lớn, trời đen kịt khiến bác Lương Văn Thắng không thể xác định được hướng đi, tắt máy dừng lại thì thuyền sẽ lật!”, anh Hợi nói.
Video đang HOT
Sau gần 30 phút cầm cự, ghé sát được gần bờ nhưng mọi người không thể rời thuyền vì đá lởm chởm, nước sâu. Giữa lúc mưa gió vần vũ, bác Thắng ướt sũng nước, vẫn bám chặt tay lái điều khiển con thuyền thoát ra khỏi vùng xoáy.
Cơm chan nước suối
Đường vào bản Xốp Nậm (xã Tam Hợp) quanh co khúc khuỷu, bên vực bên núi. Trên con đường này, các thầy cô “cắm bản” vùng sâu ngày đêm “đèo” chữ lên miền rẻo cao.
Có đường cho ô tô, xe máy vào bản trung tâm xã nhưng đi trên đường ấy còn cực khổ hơn đi bộ. “Mùa nắng, xe chở gỗ quần nát đường núi, bụi mù mịt. Mưa xuống, bùn đất lầy lội, chỉ 17km nhưng có khi phải mất hơn 2 tiếng đồng hồ mới tới nơi!”, Bí thư Huyện đoàn Tương Dương Mạc Nguyên nói.
Bếp nấu ăn của các em HS bán trú Tam Hợp dựng bên bờ suối Ảnh: Quang Long
Ba giờ chiều, tôi cùng Mạc Nguyên và Lê Hồng Thái (Phó Bí thư Huyện đoàn) lên xe, rời thị trấn Hòa Bình vào Xốp Nậm.
Trời đổ mưa, xe phải bò từng đoạn, lúc lơ lửng chín tầng mây, lúc đổ đèo sâu hun hút. Đang men theo sườn núi bỗng giật mình, tiếng động ầm ầm như lũ quét, từ đâu con suối lao ra, nước réo sùng sục.
Rẻo cao Nghệ An, đường vào bản thường bị lũ chia cắt, có khi phải nằm lại trong rừng hai ba ngày mới ra được thị trấn.
Hơn hai tiếng đồng hồ đánh vật với đường núi quanh co, 5h chiều, chúng tôi vào bản trung tâm Xốp Nậm. Bên bờ suối, dãy lều làm bằng nứa của các em học sinh bán trú liêu xiêu tựa vào nhau, run rẩy trong mưa.
Tôi khom người chui vào một túp lều, thấy cô bé học sinh đang lúi húi dọn cơm chiều. Một mình một nồi, chẳng có tý thức ăn, bé múc nước suối đổ thẳng vào xoong cơm, dùng thìa xúc ăn ngon lành.
Con suối nhỏ vắt ngang triền núi, bên này là trường học, bên kia là nhà bán trú của 90 em học sinh người Mông, người Poọng thuộc xã rẻo cao Tam Hợp.
Từng nhóm 5-7 em quây quần bên bữa cơm tối đạm bạc. Nhóm nào “sang”, bữa cơm có thêm ít canh bí, hầu hết các em phải ăn cơm chan với nước suối.
Xồng Bá Tếnh (SN 1997, lớp 9B) nói: “Từ nhỏ đến giờ, bố mẹ cho ăn cơm chan nước suối, quen rồi!”. Hàng ngày, các em mang can xuống suối múc nước về “đưa cơm vào miệng”, hoặc sang trường hứng nước lọc tại công trình nước sạch, nhưng vẫn là nước lã. Một số em biết đun nước sôi để ăn với cơm.
Một vài em học sinh nhỏ tuổi đã sớm biết quăng chài, bắt cá dọc suối về làm thức ăn. Đêm đêm, sau giờ học bài, từng nhóm rủ nhau đi săn cá mát. Cá mát miền Tây Nghệ An sống tự nhiên dọc khe suối, thịt mềm, ruột đắng.
Các cậu học sinh đội đèn pin lên đầu, ngụp xuống soi cá. Khi phát hiện thấy đàn cá, lập tức dùng nỏ tự chế bắn tỉa, tài thiện xạ của “rái cá” bản địa bắn phát nào trúng phát nấy, có những phát đạn cực mạnh khiến cá đứt lìa thân.
“Đèn pin đưa xuống nước vẫn sáng được à?”, tôi hỏi Xồng Bá Tếnh. “Sáng được! Xong về lau khô, mang ra học bài!”, Tếnh đáp.
Không có bàn học, HS rẻo cao nằm rạp trên giường học bài
Xồng Y Rê, học sinh lớp 7 Trường PTCS Tam Hợp (học sinh cấp 1, cấp 2 cùng học chung một trường) kể: “Gia đình cháu có 9 người, nghèo lắm, cái chi cũng không có. Cả năm chẳng mấy khi được ăn thịt. Cá thì ở dưới suối, cháu không bắt được!”.
So với các bạn cùng lớp, Xồng Y Rê thuộc diện nghèo nhất, nghèo đến nỗi “áo quần của cháu chỉ có vài bộ để thay. Đến Tết, mẹ mới mua áo mới”.
Rê vừa xong bữa cơm chiều. Túp lều bên cạnh, tôi thấy hai tốp học sinh đang quây quần bên nồi cơm. Tốp 5 người, có nồi bí đỏ, món ăn thường trực của những học sinh “khá giả” bản Huồi Sơn. Bên cạnh là ba em học sinh đang dùng thìa múc cơm chan nước lã.
“ Sao các cháu không bỏ muối vào, cho dễ ăn?”, tôi hỏi. “Bọn cháu ăn rứa, quen rồi!”, Lầu Y Lỳ, học sinh lớp 9 bảo. Các học sinh vừa ăn vừa đùa nghịch, vui cười hồn nhiên.
Nhà bếp của các học sinh bán trú
Tìm chữ dưới ánh đèn pin
Không có điện. Tối như bưng. Ánh sáng bập bùng từ bếp lửa soi tỏ những khuôn mặt sạm đen, hao gầy. Ngày mai, thứ Bảy, một số học sinh bản Huồi Sơn, Phà Lõm, bản Văng Môn chuẩn bị hành trang về với gia đình.
Đều đặn mỗi tuần một lần, các em băng rừng rời bản trung tâm về nhà, lúc trở lại trường trên lưng địu một bao gạo, quả bí đỏ, mớ rau xanh.
“Mỗi tuần, cha mẹ cho các cháu mỗi người 4-5 kg gạo, ăn hết lại về lấy!”, Sồng Y Dìa (SN 1998) nói.
Đường về nhà, xa nhất là Phà Lõm, các em học sinh nhỏ tuổi phải đi bộ vượt qua chặng đường 24km cả đi lẫn về, vượt núi cao và vực sâu. Bản Huồi Sơn cách Xốp Mạt khoảng 9km đường rừng.
Vượt lên thiếu thốn, cực khổ, các em học sinh người Mông, người Poọng tại xã Tam Hợp đi tìm cái chữ. Giữa căn nhà bán trú đơn sơ, chật hẹp, không bàn không ghế, từng nhóm nhỏ chụm đầu học bài dưới ánh đèn pin.
Có em nằm rạp trên tấm liếp, soi đèn pin cặm cụi học bài. Có em kẹp đèn pin vào cổ, soi từng con chữ. Ánh đèn yếu ớt, chỉ đủ để rọi vào trang sách.
Nhiều học sinh hàng ngày ăn cơm với nước lã, nước suối do phần bắt nguồn từ thói quen, phong tục tập quán của người Mông.
Nhưng thực tế là bữa cơm hàng ngày của học sinh bán trú tại Trường PTCS Tam Hợp (Tương Dương) hiện đang rất nhiều thiếu thốn…
Theo tiền phong
Thăm cột mốc Không số cực Tây Apa Chải
Lời bài hát giao duyên mộc mạc của người Mông như thúc giục chúng tôi lên đường đến với miền cực Tây xa xôi của Tổ quốc. Xuất phát từ Hà Nội, đoàn chúng tôi vượt qua hơn 500km qua Hoà Bình, Sơn La, qua đèo Pha Đin đẹp hùng vĩ và nổi tiếng với những dốc cua nguy hiểm chết người để đến Điện Biên.
"...Hát, không hát lời nặng.
Hát, chẳng hát lời đau.
Hát không để người già ghét.
Hát không để người trẻ nhiếc.
Đã hát thì hát đến nơi.
Ta lấy được mình, ta quý mình như bóng chiều hôm
Ta lấy được mình, ta yêu mình như bóng chiều tà.
Tình yêu đôi ta đẹp đẽ thay...."
Sau khi nghỉ đêm tại Điện Biên, sớm hôm sau chúng tôi tiếp tục hành trình khoảng 280km theo quốc lộ 12 lần lượt qua Mường Chà - Chà Cang - Mường Nhé rồi đến xã Apa Chải thuộc huyện Mường Nhé. Quãng đường tuy không xa nhưng nhiều đoạn đang được thi công, những con ngầm qua suối chảy xiết lổng chổng đá hộc và cuội tròn to, chưa kể đến những con đèo ngoằn ngoèo và cả những con dốc dài với độ nghiêng chỉ có ở "cung đường độc" này càng làm cho đường đi thêm phần xa xôi cách trở.
Chúng tôi đến được bản Tá Miếu, một bản của người dân tộc Hà Nhì nằm ngay dưới chân núi Apa Chải và cũng là bản dân xa nhất về phía tây Tổ quốc vào chập tối, liên hệ với đồn Biên phòng để được dừng chân và xin hướng dẫn lên thăm cột mốc Không số duy nhất trên đường biên giới Việt Nam. 5h sáng, tiếng kẻng nhà binh thúc các chiến sỹ trong đồn dậy tập thể dục, cũng là lúc chúng tôi dậy chuẩn bị đồ ăn nước uống cho một ngày dài hành quân chinh phục Mốc.
Đoạn đường đến cột mốc Không số hoàn toàn chỉ có đường rừng, đường mòn hoặc thậm chí là không có cả đường mòn. Tuy nhiên, nhờ các chiến sĩ biên phòng dẫn đường, chặng đường hành quân hơn 8km đi bộ, leo núi dốc, xuyên qua các vạt núi cỏ gianh cao quá đầu người và những cánh rừng già trở nên đẹp lãng mạn bởi quang cảnh hùng vĩ bao la hiện ra trước mắt và pha thêm chút mạo hiểm phiêu lưu. Thú vị là ở chỗ, ở nhiều điểm trên tuyến đường này ta có thể đi một chân trên quê hương, còn chân kia đã đi trên phần lãnh thổ nước láng giềng. Trong đoàn chúng tôi hầu hết mọi người đã từng chinh phục Phanxipăng - nóc nhà Đông Dương, nhưng khi đến đây vẫn thấy như không thể vượt qua bởi chặng đường lên Mốc dường như dài bất tận và cao cao đến tận trời.
Ở độ cao 1.400m chúng tôi mới thoát khỏi những triền dốc và tạm nghỉ để bắt đầu vào chặng xuyên rừng. Đây là chặng nghỉ ngơi thực sự duy nhất trong suốt hành trình bởi anh bộ đội biên phòng dẫn đường mặc dù đã rất nhiều lần lên Mốc nhưng vẫn ngại vì khi quay về phải xuyên rừng vào ban đêm sẽ rất dễ lạc đường. Cột mốc ở độ cao 1.864m là điểm cực tại kinh độ:102 độ 09'00"Đ - vĩ độ: 22 độ 23'53"B, nằm trên đỉnh núi Khoang La San - xã Apa Chải - huyện Mường Nhé - tỉnh Điện Biên là nơi xác định ranh giới ba nước là Việt Nam - Lào - Trung Quốc, được các bên thống nhất cắm mốc vào ngày 27/6/2005. Cột mốc đẹp nhất Đông Dương này được làm bằng đá granit, nằm trên bệ đá cắm giữa một hình lục giác, ngoài cùng là khối vuông mỗi cạnh dài 5m. Cột mốc hình lăng trụ, cao 2m tính từ chân đế ba cạnh, có ba mặt được viết bằng chữ quốc ngữ và khắc quốc huy của từng nước (mặt nào quay về hướng nào thì thuộc chủ quyền lãnh thổ nước đó) và là cột mốc duy nhất không đánh số trên khắp chiều dài biên giới nước ta.
Theo ANTD
Tìm thịt cho bữa cơm học sinh Bữa cơm có thịt? Ở Thu Lũm, các nhà trường cố cho các cháu tuần 2 bữa, ở Ka Lăng tuần 1 bữa, ở Tá Bạ có lẽ phải 2, 3 tuần một bữa. Học sinh bán trú ở Tá Bạ còn thiếu cả bộ quần áo chỉn chu cho buổi lên lớp, suất cơm với 2 con cá khô được khen "ngon...