Vận tải đường sắt Hà Nội (HRT) đặt mục tiêu có lãi vào năm 2022
CTCP Vận tải đường sắt Hà Nội ( HRT) vừa trình cổ đông kế hoạch kinh doanh 2020 với chỉ tiêu lỗ nhẹ và theo dự kiến của Ban lãnh đạo HRT, tới năm 2022, Công ty mới có lãi trở lại.
Kỳ vọng hưởng lợi từ dự án đầu tư công từ năm 2022
Tại ại hội đồng cổ đông thường niên của CTCP Vận tải đường sắt Hà Nội (mã HRT) tổ chức đầu tuần này, việc giải bài toán thua lỗ là vấn đề được cổ đông đưa ra chất vấn Ban lãnh đạo Công ty.
HRT được cổ phần hóa năm 2015 với vốn điều lệ hơn 800 tỷ đồng, cổ đông lớn nhất nắm giữ hơn 91% cổ phần là Tổng công ty ường sắt Việt Nam. Công ty đăng ký giao dịch cổ phiếu trên thị trường UPCoM từ năm 2016.
Theo báo cáo tài chính năm 2019, Công ty đạt doanh thu 2.594 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế 13,8 tỷ đồng. Do còn lỗ lũy kế (71 tỷ đồng tại thời điểm cuối năm 2019), Công ty không chia cổ tức.
Kế hoạch năm 2020, HRT đặt mục tiêu doanh thu 1.636 tỷ đồng, lỗ 335 triệu đồng.
Video đang HOT
Chất vấn Ban lãnh đạo về hiệu quả hoạt động, một cổ đông HRT nhận xét, Công ty càng làm càng lỗ, năm nào cũng đóng mới toa tàu nhưng kết quả kinh doanh không cải thiện. Theo kế hoạch đặt ra năm 2020, Công ty tiếp tục lỗ, vậy làm thế nào đạt được mục tiêu có lãi vào năm 2022?
Tại ại hội, đại diện Tổng công ty ường sắt Việt Nam cũng có ý kiến, Công ty cần rà soát lại các giải pháp đã triển khai, đánh giá lại giải pháp nào hiệu quả, giải pháp nào không có kết quả để có phương án thích hợp.
Năm 2020, HRT dự kiến triển khai 18 danh mục dự án đề nghị đầu tư mới với tổng mức đầu tư hơn 345 tỷ đồng, sử dụng nguồn vốn từ nguồn khấu hao tài sản cố định được sử dụng trong năm 2020 là gần 200 tỷ đồng.
Dự án lớn nhất là đầu tư đóng mới 200 toa xe hàng, dự kiến đầu tư 300 tỷ đồng. Trước mắt, Công ty bố trí 23,5 tỷ đồng, phần còn lại sẽ được bổ sung vào năm 2021 và vay vốn ngân hàng.
Chia sẻ với cổ đông, Ban lãnh đạo Công ty cho biết, hiện Dự án 7.000tỷ đồng (theo Nghị quyết 556/NQ-UBTVQH14 về phương án sử dụng nguồn vốn dự phòng của kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020 cho các dự án đường sắt và các dự án đường bộ quan trọng, cấp bách) đang thi công dẫn đến các tuyến đường sắt bị ảnh hưởng.
Nhưng đến năm 2022, khi dự án hoàn thành thì HRT sẽ được hưởng nhiều điều kiện kỹ thuật thuận lợi, tải trọng tàu được nâng lên và đây là cơ hội để Công ty có thể tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận, xóa lỗ lũy kế.
Về khoản nợ của khách hàng hơn 89 tỷ đồng, Ban lãnh đạo HRT cho biết, có hơn 10 tỷ đồng đến từ khách hàng truyền thống Apatit (thuộc Tập đoàn Hóa chất Việt Nam). Số nợ còn lại đến từ nhiều khách hàng khác nhưng các khoản nợ từ 1 tỷ đồng trở lên đều có bảo lãnh ngân hàng.
Hợp nhất để tránh… cạnh tranh!
Liên quan phương án hợp nhất HRT với CTCP Vận tải đường sắt Sài Gòn, ý kiến cổ đông bày tỏ lo ngại về quyền lợi khi hợp nhất và đề nghị cho biết lộ trình. Chủ tọa ại hội cho biết, đây mới là chủ trương.
Sau khi được ại hội đồng cổ đông thông qua, Công ty sẽ xây dựng đề án cụ thể, khi đó mới tính toán đến tỷ lệ hoán đổi cổ phiếu. Chủ tọa ại hội khẳng định, việc hợp nhất sẽ thực hiện theo các quy định pháp luật và quyền lợi của cổ đông sẽ được đảm bảo theo pháp luật.
Một cán bộ quản lý của Tổng công ty ường sắt Việt Nam cho biết thêm, sau khi nhiều công ty con thuộc Tổng công ty được cổ phần hóa, Tổng công ty đã nghiên cứu và thấy rằng do có tập khách hàng chung nên phát sinh cạnh tranh nội bộ, dẫn tới sụt giảm hiệu quả sản xuất – kinh doanh.
Việc hợp nhất hai công ty đường sắt Hà Nội và TP.HCM nhằm mục đích chuyên môn hoá, tách bạch vận tải hàng hoá và vận tải hành khách, hạn chế tối đa cạnh tranh nội bộ, tập hợp nguồn lực để nâng cao năng lực cạnh tranh với các phương thức vận tải khác, hạ giá thành vận tải…
Hiện đề án đã được Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước chấp thuận, trình Chính phủ và hiện đang chờ Chính phủ phê duyệt.
Về phương hướng hoạt động sau sáp nhập, Ban lãnh đạo Công ty cho biết, cụ thể còn phải chờ chủ trương được Chính phủ phê duyệt, sau đó xây dựng đề án, nhưng về cơ bản sẽ tách vận tải hành khách và vận tải hàng hóa riêng, có thể hình thành công ty con.
Sau cổ phần hóa, HRT đang quản lý và sử dụng 17 cơ sở nhà đất. Có 4 cơ sở nhà đất đã hoàn thành thủ tục chuyển đổi, ký hợp đồng thuê với Nhà nước bao gồm: Nhà điều hành tại Bắc Giang, Chi nhánh Vận tải đường sắt Yên Bái, trụ sở Trạm công tác tại Yên Bái, Văn phòng chi nhánh tại Lào Cai. Có 3 cơ sở đang mời gọi đối tác hợp tác khai thác.
Còn lại 14 cơ sở nhà đất nằm rải rác ở nhiều tỉnh, thành phố và chưa hoàn thành thủ tục chuyển đổi. Đơn cử như trụ sở HRT tại số 130 Lê Duẩn (Hà Nội), Công ty đã nhiều lần đề nghị nhưng các sở chưa chấp thuận vì vướng quy hoạch đường sắt trên cao
Hỗ trợ nhưng cần đảm bảo cân đối ngân sách, an toàn cho ngân hàng
Bộ Tài chính vừa trình Chính phủ dự thảo Nghị định gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất nhằm hỗ trợ các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Ước tính số tiền hỗ trợ khoảng 80.200 tỷ đồng.
Trước đó, ngành ngân hàng cũng đã triển khai gói hỗ trợ 250.000 tỷ đồng nhằm cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xem xét miễn giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ, giảm phí... Các biện pháp này đã đủ mạnh để giúp doanh nghiệp cầm cự, vượt qua khó khăn hiện nay? PV Báo SGGP đã có cuộc trao đổi với TS Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Vietnam, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tư vấn phát triển, nghiên cứu kinh tế, phân tích chính sách.
- Phóng viên: Ông nghĩ sao về gói hỗ trợ giãn thời gian nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và tiền thuê đất mà Bộ Tài chính vừa trình Chính phủ?
TS LÊ DUY BÌNH: Gói hỗ trợ qua hình thức cho phép chậm nộp với một số khoản thuế này sẽ là biện pháp có tác động trực tiếp nhất trong các biện pháp hỗ trợ kể từ đầu mùa dịch Covid-19 tới nay. Hỗ trợ này có tác động gần như ngay lập tức tới gần 800.000 doanh nghiệp (DN) nhỏ và vừa. Hàng triệu hộ gia đình, hộ và cá nhân kinh doanh có hoạt động liên quan tới sản xuất, chế biến thực phẩm, dệt, sản xuất giày, vận tải, đường sắt, dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch... sẽ được hỗ trợ về khả năng thanh khoản trong 5 tháng để phục hồi sau khi dịch qua đi. Biện pháp này sẽ là sự sẻ chia và hỗ trợ rất cần thiết của Chính phủ với cộng đồng DN và cá nhân kinh doanh trên cơ sở tính toán cân nhắc cẩn trọng nhằm đảm bảo những cân đối lớn về kinh tế vĩ mô.
- Có ý kiến, DN sau 5 tháng vẫn phải nộp nên thực tế biện pháp này không hiệu quả. Ông có ý kiến ra sao?
Tôi không đồng ý với nhận định như vậy. Một trong những khó khăn lớn nhất của các DN là khả năng thanh khoản, tức là năng lực để thực hiện các nghĩa vụ thanh toán ngắn hạn. Hỗ trợ bằng hình thức này là hoàn toàn phù hợp để giải quyết khó khăn và cũng sẽ được cộng đồng DN và các hộ kinh doanh đánh giá cao. Đặc biệt là nó sẽ có sự hỗ trợ trực tiếp ở diện rộng với nhiều đối tượng.
Những kỳ vọng miễn hoàn toàn các khoản phải nộp ngân sách này là không khả thi và chưa thực sự cần thiết. Chính sách thuế cần phải đảm bảo được nguyên tắc công bằng với tất cả DN và người kinh doanh. Cũng cần lưu ý rằng, con số 80.200 tỷ đồng tương đương khoảng 5% tổng thu ngân sách nhà nước. Miễn toàn bộ khoản thu này đồng nghĩa với việc thâm hụt ngân sách lập tức tiệm cận con số 10% trong năm nay. Điều đó sẽ phá vỡ tất cả cân đối vĩ mô và dẫn đến những hệ lụy khác cho nền kinh tế như: tăng nợ công, giảm chi cho phát triển, tăng lạm phát, giảm chi tiêu cho an sinh xã hội cho những nhóm người yếu thế.
Chúng ta mới ở quý 1 và đang có những triển vọng về việc khống chế dịch; đang có dấu hiệu tích cực về sự phục hồi và tiếp tục tăng trưởng của nền kinh tế. Khả năng các DN phục hồi sản xuất kinh doanh và thực hiện các nghĩa vụ nộp ngân sách này vào nửa cuối năm nay là có thể. Hơn nữa, việc thực thi các biện pháp cũng cần phải tuân thủ các nguyên tắc vận hành của một nền kinh tế thị trường, của mục tiêu về đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, các quy định của pháp luật về thẩm quyền của Chính phủ trong việc sử dụng các biện pháp hỗ trợ. Tùy thuộc vào diễn tiến của tình hình dịch bệnh cũng như của nền kinh tế trong những tuần và những tháng sắp tới, các biện pháp mới, hỗ trợ mới cũng có thể được bổ sung. Nhưng với bối cảnh hiện tại, biện pháp hỗ trợ như vậy là phù hợp và hiệu quả.
- Một số ý kiến cho rằng, DN sẽ khó khăn hơn nhiều so với khủng hoảng tài chính năm 2008. Vì thế, các biện pháp phải có sự chọn lọc, mạnh mẽ hơn. Ví dụ như giảm thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu (đang là 4.000 đồng/lít), giảm thuế GTGT, thuế TNDN; giảm lãi vay đến 5%, thậm chí bằng 0; giãn nợ vay ngân hàng, tạm dừng đóng các loại bảo hiểm đến cuối năm...
Giá xăng dầu trong nước đang được hỗ trợ mạnh mẽ bằng sự sụt giảm giá dầu thế giới. Vấn đề của ngành GTVT hiện giờ nằm ở cầu đối với dịch vụ này hơn là ở mức giá xăng dầu. Hơn nữa, với mục tiêu phát triển xanh và bền vững, chúng ta cần kiên định với các mức phí về bảo vệ môi trường đối với xăng dầu cũng như các nhiên liệu hóa thạch khác.
Việc hạ lãi suất cũng là biện pháp hỗ trợ rất cần thiết cho DN, hộ gia đình và cá nhân kinh doanh trong bối cảnh hiện nay. Nhưng giảm lãi vay đến 5% thậm chí bằng 0% là điều không thực tế, không phù hợp với thị trường. Lãi suất bản chất cũng là một loại giá và nó phải được quyết định bởi thị trường và các chính sách tiền tệ trên cơ sở cân đối với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Ngân hàng cũng là DN và họ cần đảm bảo được an toàn trong hoạt động cũng như khả năng bền vững về tài chính. Họ cần đưa ra một mức giá đủ hấp dẫn để thu hút người dân, DN gửi tiền vào và đưa ra một mức giá đảm bảo để họ đủ trả tiền cho người gửi tiền, trang trải chi phí hoạt động của mình. Lúc này, các ngân hàng có thể chia sẻ bằng cách giảm bớt phần lợi nhuận mình được hưởng để giảm lãi vay cho DN và người kinh doanh, nhưng không thể xuống mức mà làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới an toàn về tài chính của ngân hàng.
Chúng ta cần cẩn trọng với biện pháp cho phép các tổ chức tín dụng được giữ nguyên nhóm nợ đã phân loại theo quy định và về thời hạn các tổ chức tín dụng được áp dụng biện pháp này. Biện pháp này chứa đựng những nguy cơ làm tăng tỷ lệ nợ khó đòi trong hệ thống ngân hàng trong tương lai; tăng những rủi ro về pháp lý với ngân hàng, các tổ chức tín dụng nếu như không có các quy định rõ ràng để bảo vệ các tổ chức tín dụng khi có rủi ro pháp lý có thể phát sinh trong tương lai khi thực hiện biện pháp này.
Do vậy, các biện pháp hỗ trợ cần được cân nhắc với tác động ngắn hạn, dài hạn, trên cơ sở tính toán tới các đối tượng khác nhau và với việc mục tiêu duy trì ổn định kinh tế vĩ mô là mục tiêu tối thượng. Các DN và người kinh doanh cũng nên có kỳ vọng và yêu cầu hợp lý đối với sự hỗ trợ từ Chính phủ. Tinh thần tự lực cánh sinh từ mỗi DN vẫn là yếu tố quyết định. Có như vậy, DN mới có giải pháp hiệu quả nhất cho mình để vượt qua giai đoạn khó khăn này.
NGỌC QUANG
Đường sắt giảm giá 50% với 4.600 vé tàu kích cầu Công ty Cổ phần Vận tải đường sắt Sài Gòn cho biết, công ty sẽ triển khai thực hiện Chương trình kích cầu "4.600 vé giảm giá 50%" cho hành khách đi trên các đoàn tàu do công ty quản lý từ ngày 22/6 - 8/7. Chương trình nhằm thúc đẩy thị trường nội địa và khuyến khích người dân sử dụng phương...