Văn bằng 2: Cung, cầu gặp nhau
Lâu nay, văn bằng 2 vẫn được xem là cung – cầu đã gặp nhau. Nói như các chuyên gia, việc đào tạo văn bằng 2 góp phần đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân và nhu cầu về nhân lực cho xã hội.
Đào tạo văn bằng 2 góp phần đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân. Ảnh minh họa
Câu chuyện về bà Đào Thị Thư, 63 tuổi trúng tuyển vào ngành piano bậc ĐH chính quy Trường ĐH Văn Hiến trong những ngày qua đã tốn không ít giấy mực của báo chí. Năm 2016, bà Thư từng tốt nghiệp ĐH ngành Ngôn ngữ Anh của Trường ĐH Hà Nội, khi đó bà đã 60 tuổi. Bà tâm sự: Việc học thêm một tấm bằng ĐH khi đã 63 tuổi nhằm thỏa mãn nhu cầu học tập suốt đời của mình. Điều đó sẽ giúp cho bà có thêm nhiều kiến thức mới.
Hay như trường hợp cụ ông 68 tuổi ở TP Hồ Chí Minh; năm 2017 ông nhận bằng ĐH thứ 8 tại Trường ĐH Mở TPHCM. Sự kiện này cũng trở thành đề tài sôi nổi trên các mặt báo và diễn đàn mạng xã hội. Đáng chú ý, trong số 8 bằng đã nhận được, cụ ông này có 7 ngành theo học văn bằng 1 và một ngành văn bằng 2.
Thực tế, đâu đó cũng có những ý kiến chưa hài lòng về chất lượng đào tạo văn bằng 2, về việc này, việc kia nhưng rõ ràng, chúng ta không thể phủ nhận, từ việc đào tạo văn bằng 2 đã giúp cho nhiều người có cơ hội việc làm và thành công trong công việc.
Video đang HOT
Nhu cầu học tập là chính đáng và nhu cầu học ĐH cũng chưa bao giờ là muộn. Bởi trên thực tế, còn có hàng trăm hàng nghìn người có bằng ĐH rồi nhưng họ vẫn có nhu cầu học tiếp. Có nhiều lý do để tiếp tục sự học. Có thể do họ cảm thấy không thích lĩnh vực nghề nghiệp mà mình đã học trước đây, hoặc có thể kiến thức của họ đã có nhưng chưa đầy đủ; hoặc họ muốn nâng cao cơ hội tìm kiếm việc làm trong lương lai thông qua việc nâng cao kiến thức. Suy cho cùng cũng là để thỏa mãn đam mê, nhu cầu học tập và phục vụ cho công việc của cá nhân. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà Tổ chức UNESCO đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.
Còn nhớ, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đã chỉ ra một số nhóm đối tượng có nhu cầu học tập, gồm: Những người đang nắm các cương vị lãnh đạo muốn phát triển năng lực, trí tuệ, củng cố vị trí và hoàn thiện mình; những người đang công tác trong các cơ quan, doanh nghiệp muốn nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao chất lượng cuộc sống; những người đã về hưu muốn tìm đến các trường ĐH để đọc, nghe, học và tìm hiểu các chuyên đề phục vụ cho cuộc sống mới, có thể họ muốn khởi nghiệp, muốn tìm hiểu văn hóa ứng xử của người già, họ cũng muốn học các môn về nâng cao sức khỏe; cán bộ giảng dạy trong các trường ĐH muốn học liên tục để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu.
Và trong số các nhóm đối tượng có nhu cầu học tập nêu trên, chắc chắn có không ít người đã và đang học văn bằng 2 ĐH. Chính vì vậy, thiết nghĩ, các trường ĐH cần mở rộng cơ hội tiếp cận cho người học. Cần tính tới việc không hạn chế đầu vào, bởi mục đích chính là phục vụ chất lượng công việc ngày càng tốt hơn chứ không chỉ đơn thuần là vấn đề văn bằng.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, khuyến khích không có nghĩa là buông lỏng mà phải đi kèm với kiểm định chất lượng. Đây cũng là lý do mà các chuyên gia đề nghị, trong thời gian tới, Bộ GD&ĐT tăng cường kiểm tra, kiểm soát chất lượng GD nói chung và chất lượng đào tạo văn bằng 2 nói riêng. Mục tiêu cuối cùng là dạy – học có chất lượng, phục vụ đắc lực cho công việc, đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng cũng như nhu cầu của cá nhân người học.
Tâm An
Theo GDTĐ
Xây dựng nền giáo dục chia sẻ
Ngày 23-8, tại TP Hồ Chí Minh, Hội khuyến học Việt Nam phối hợp Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường đại học Tôn Đức Thắng tổ chức hội thảo khoa học "Vai trò của trường đại học với việc xây dựng tài nguyên giáo dục mở, đáp ứng yêu cầu học tập suốt đời của người lớn".
Hơn 100 nhà quản lý, nhà khoa học, giảng viên... khu vực phía nam tham dự.
Tại hội thảo, các đại biểu cho rằng, người lao động nói chung ở nước ta hiện còn nghèo nàn về tri thức, những tri thức hiện có không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, không đủ sức để tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Nguyên nhân dẫn đến điều này chủ yếu do nền giáo dục còn khép kín, chưa mở ra những con đường tích tụ tri thức và những cơ chế chia sẻ tri thức cho người học, nhất là cho lực lượng lao động. Hiện tượng này làm xuất hiện những "khoảng cách tri thức" giữa các cộng đồng dân cư, giữa các vùng kinh tế.
Các đại biểu khẳng định, tài nguyên giáo dục mở chính là nguồn lực lấp đi sự nghèo nàn về tri thức. Tài nguyên này được chuyển tải trên mạng thông tin, phân phối đến từng đối tượng người học, không có trở ngại về địa lý và hàng loạt rào cản khác sẽ nhanh chóng giúp những người học tự trang bị tri thức cho mình.
Để thực hiện được vấn đề này, các trường đại học đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra tài nguyên giáo dục mở sẽ giúp cho nhiều đối tượng, như: công chức, viên chức, người lao động, nông dân... có thêm nhiều kênh để học tập không bị cách ly với xu hướng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra nhanh chóng như hiện nay.
Theo đó, lãnh đạo các trường đại học nhấn mạnh, việc xây dựng tài nguyên giáo dục mở phục vụ cho người lớn có đầy đủ tư liệu học tập suốt đời phải hướng đến hai vấn đề lớn: Thứ nhất, xây dựng kho tư liệu giáo dục càng lớn càng tốt dưới hình thức đầu tư phần mềm cho giáo dục thường xuyên. Qua đó, phát huy tinh thần hiếu học của người học và tạo cho họ năng lực tự học với cách học hiện đại, sử dụng các công nghệ học tập để truy cập, tiếp cận, sử dụng, phổ biến, chia sẻ tri thức. Thứ hai, xây dựng tài nguyên giáo dục mở cần kèm theo cơ chế chia sẻ tri thức từ tài nguyên giáo dục mở linh hoạt, đa dạng và phong phú về giá trị sử dụng để giúp người học tự học bất ở cứ đâu, thời gian nào.
Ngoài ra, các đại biểu cũng đề xuất các giải pháp phát triển hệ thống giáo dục mở để các trường Đại học phải chuyển đổi mạnh mẽ phương pháp đào tạo, tạo ra tri thức theo hướng giáo dục mở cho người học dễ dàng tiếp thu tri thức; việc xây dựng và phát triển hệ thống các trường đại học tham gia trong một mạng lưới tổ chức xây dựng tài nguyên giáo dục mở... để hướng đến một nền giáo dục chia sẻ.
CAO TÂN
Theo Nhân dân
Phát triển, xây dựng tài nguyên giáo dục mở: Cần cơ chế, chính sách Tài nguyên giáo dục mở (TNGDM) được xem như một giải pháp hữu hiệu giúp các trường đại học khắc phục tình trạng thiếu hụt nguồn tài liệu có chất lượng để đáp ứng yêu cầu dạy học. Tuy nhiên, để xây dựng và phát triển tài nguyên giáo dục mở, cần xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp...