Ưu tiên chi tiêu công cho giáo dục cơ bản
Kết quả nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) vừa được công bố trong Báo cáo “Tăng trưởng thông minh hơn: học tập và phát triển công bằng ở Đông Á – Thái Bình Dương” cho thấy, các hệ thống giáo dục hàng đầu ở khu vực Đông Á – Thái Bình Dương đều áp dụng ba nguyên tắc chi tiêu hiệu quả các nguồn lực công.
Học tập có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược tăng trưởng dựa trên năng suất lao động. Ảnh: Hoài Tâm
Đây là một gợi ý cho Việt Nam trong việc phân bổ nguồn lực đầu tư công cho phát triển kinh tế – xã hội.
Các nguyên tắc này gồm: ưu tiên chi tiêu công cho giáo dục cơ bản, quản lý hiệu quả các đầu vào thiết yếu, và tăng cường phân phối công bằng các nguồn lực. Theo khuyến nghị của các chuyên gia, các quốc gia nhắm đến xây dựng nguồn nhân lực vững chắc cho tăng trưởng kinh tế cần ưu tiên chi tiêu công cho giáo dục cơ bản.
Thực tế cho thấy, chi tiêu công cho giáo dục không tương quan với kết quả học tập. Mức chi tiêu công cho giáo dục rất khác nhau giữa các quốc gia trên thế giới và trong khu vực Đông Á – Thái Bình Dương. Tại các quốc gia hàng đầu trong khu vực, giáo dục đào tạo được ưu tiên đầu tư nguồn lực lớn từ ngân sách nhà nước. Singapore dành gần 1/3 ngân sách quốc gia cho giáo dục kể từ năm 1952 và tỷ lệ này giảm liên tục khi thu nhập gia tăng, cho đến nay, tỷ lệ này chỉ còn 1/5. Tại Hàn Quốc, chi tiêu cho giáo dục chiếm 14,3% tổng ngân sách tính trong năm 1963, tiếp tục tăng lên 20,4% vào năm 2000, sau đó giảm xuống còn 12,8% năm 2013. Tại Nhật Bản, 14,5% chi tiêu của Chính phủ được dành cho giáo dục tính trong năm 1955 và được duy trì cho 30 năm tiếp theo, trước khi giảm xuống còn 8,1% – 9,3% trong giai đoạn 2009 – 2013. Các nền kinh tế tăng trưởng tốt ở Đông Á – Thái Bình Dương đều tập trung đầu tư vào giáo dục tiểu học cho đến giáo dục đại học.
Video đang HOT
Đánh giá xu hướng chi tiêu công, theo kết quả nghiên cứu của WB, chi tiêu công cho giáo dục trên mỗi học sinh tiếp tục tăng theo thực tế, ngay cả khi nó được kiểm soát chặt chẽ như là một phần của GDP và chi tiêu của chính phủ. Đầu tư công hiệu quả ở các nền kinh tế tăng trưởng tốt đã giúp tạo dựng nền tảng vững chắc cho các hệ thống giáo dục. Ngược lại, học tập có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược tăng trưởng dựa trên năng suất lao động của khu vực Đông Á – Thái Bình Dương.
Ở các hệ thống giáo dục hàng đầu, khi nền kinh tế tăng trưởng và nhu cầu đối với lao động có kỹ năng cao ngày càng tăng, tỷ trọng chi tiêu cho cấp giáo dục cao hơn được tăng lên. Sự kiểm soát ngân sách cho giáo dục ở cấp trung ương cho phép chính phủ đảm bảo đầu tư bền vững và chỉ đạo trực tiếp việc sử dụng nguồn lực. Sự kiểm soát này đã giúp đảm bảo trách nhiệm giải trình ở cấp địa phương và nhà trường.
Sự kiểm soát ngân sách cho giáo dục ở cấp trung ương cho phép chính phủ đảm bảo đầu tư bền vững và chỉ đạo trực tiếp việc sử dụng nguồn lực. Sự kiểm soát này đã giúp đảm bảo trách nhiệm giải trình ở cấp địa phương và nhà trường.
Kinh nghiệm cho thấy, các quốc gia giàu có hơn thường phân bổ chi tiêu nhiều hơn cho các cấp giáo dục thấp hơn. Tuy nhiên, so với các hệ thống giáo dục hàng đầu, Việt Nam vẫn ưu tiên đầu tư công nhiều hơn cho giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở. Trung Quốc cũng ưu tiên đầu tư công cho giáo dục tiểu học, dạy nghề và giáo dục mầm non. Ngay cả khi đã gia tăng đầu tư cho các cấp giáo dục cao hơn, các nền kinh tế tăng trưởng tốt vẫn tiếp tục tăng mức chi tiêu tuyệt đối cho học sinh tiểu học và trung học để nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp này. Hàn Quốc và Singapore đã tăng gấp đôi mức chi tiêu thực trên mỗi học sinh cho giáo dục cơ bản. Nhật Bản cũng tăng mức chi tiêu tuyệt đối cho mỗi học sinh trong giai đoạn 2000 – 2013. Ở Nhật Bản và Hàn Quốc – nơi đầu tư cho giáo dục đại học chủ yếu là từ khu vực tư nhân – chi tiêu công trên mỗi học sinh ở cấp giáo dục đại học chưa bao giờ vượt quá chi tiêu cho giáo dục cơ bản.
Các hệ thống giáo dục hàng đầu ở Đông Á – Thái Bình Dương quản lý hiệu quả hai hạng mục đầu tư quan trọng: chi tiêu cho giáo viên và chi tiêu cho hạ tầng trường học. Nguồn lực được phân bổ đầy đủ để thu hút và giữ chân đội ngũ nhân lực giỏi, với mức lương thưởng và lợi ích xứng đáng cho các giáo viên có kinh nghiệm và có thành tích giảng dạy trên lớp. Singapore thường xuyên điều chỉnh mức lương cho giáo viên, đảm bảo các khoản bù đắp khác, và áp dụng thưởng dựa trên đánh giá kết quả hoạt động. Tại Hàn Quốc, giáo viên có trên 15 năm kinh nghiệm có thu nhập cao hơn so với các đồng nghiệp của mình nhờ có nhiều cơ hội làm việc trong khu vực tư nhân. Tại cả Nhật Bản và Hàn Quốc, giáo viên có trên 15 năm kinh nghiệm (và được đánh giá thường xuyên) được hưởng mức lương tương ứng là 125% và 140% GDP bình quân đầu người.
Theo Baodauthau.vn
Học sinh Việt Nam có thành tích học tập tốt hơn so với nhiều nước
Ở độ tuổi lên 10, một học sinh Việt Nam trung bình có thành tích học tập tốt hơn hầu hết các học sinh tốp đầu của Ấn Độ, Peru và Ethiopia.
ảnh minh họa
Theo báo cáo được Ngân hàng thế giới công bố ngày 15/3, 7 trong số 10 hệ thống giáo dục hàng đầu thế giới đang nằm ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương. Trong đó, sự phát triển thực sự ấn tượng thuộc về hệ thống giáo dục của Việt Nam và Trung Quốc.
Ngân hàng Thế giới gọi Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia tiên phong trong đổi mới giáo dục. Đây là một thành tựu lớn của khu vực và có thể trở thành những bài học kinh nghiệm quan trọng cho các quốc gia khác trên thế giới.
Học sinh Việt Nam có thành tích học tập tốt hơn so với nhiều nước (ảnh minh họa)
Báo cáo nêu rõ, khu vực Đông Á - Thái Bình Dương đang có khoảng 331 triệu trẻ em ở độ tuổi đến trường, chiếm khoảng một phần tư tổng số trẻ ở độ tuổi đến trường của thế giới. 40% trong số này đang theo học trong các trường thuộc các hệ thống giáo dục có thành tích học tập cao hơn mức trung bình của khối Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Các trường này không chỉ nằm ở các nước giàu có như Singapore, Hàn Quốc và Nhật Bản, mà còn ở các nước có thu nhập trung bình như Trung Quốc và Việt Nam.
Ngoài ra, báo cáo nhấn mạnh, kết quả học tập của học sinh không nhất thiết phải tỉ lệ thuận với mức thu nhập của quốc gia đó. Ví dụ, ở độ tuổi lên 10, một học sinh Việt Nam trung bình có thành tích học tập tốt hơn hầu hết các học sinh tốp đầu của Ấn Độ, Peru và Ethiopia.
Một phát hiện quan trọng khác của báo cáo là thu nhập hộ gia đình không phải luôn quyết định kết quả học tập của trẻ và điều này đúng với tất cả các nước trong khu vực. Ví dụ, ở Việt Nam và Trung Quốc, học sinh từ các hộ gia đình nghèo có kết quả học tập trong lĩnh vực toán và khoa học ngang bằng, thậm chí cao hơn so với nhóm học sinh trung bình trong khối OECD.
Giám đốc cấp cao về Giáo dục của Ngân hàng Thế giới, Ông Jaime Saavedra nhận xét: "Hiệu quả chính sách cho việc lựa chọn, thúc đẩy và hỗ trợ giáo viên cũng như thực tiễn dạy học ở nhà trường là yếu tố quyết định kết quả học tập của học sinh. Đối với các nhà hoạch định chính sách đang tìm cách cải thiện hệ thống giáo dục của đất nước, việc phân bổ ngân sách một cách hiệu quả, đi kèm với cam kết chính trị mạnh mẽcó thể tạo ra sự khác biệt thực sự cho cuộc sống của trẻ em trong khu vực".
Báo cáo đưa ra các bước cụ thể giúp cải thiện kết quả học tập cho các hệ thống giáo dục tụt hậu trong khu vực cũng như các quốc gia khác trên thế giới, theo đó bắt đầu bằng việc đồng bộ thể chế để đảm bảo sự nhất quán và phù hợp giữa mục tiêu và trách nhiệm trên khắp hệ thống giáo dục.
Đồng thời, kêu gọi các quốc gia tập trung vào bốn lĩnh vực chính: chi tiêu công có hiệu quả và công bằng, chuẩn bị cho học sinh học tập, lựa chọn và hỗ trợ giáo viên và sử dụng có hệ thống các chương trình đánh giá để định hướng công tác giảng dạy
Theo VOV
Top hệ thống giáo dục hàng đầu của thế giới: Việt Nam tạo ấn tượng mạnh Theo báo cáo mới được công bố của Ngân hàng Thế giới, 7 trong số 10 hệ thống giáo dục hàng đầu của thế giới nằm ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, sự phát triển của Việt Nam đã thực sự tạo ấn tượng. 7 trong số 10 hệ thống giáo dục hàng đầu của thế giới nằm ở khu...