Tuyến đường cao tốc Bắc – Nam: Xu hướng của công nghệ hiện đại
Dự án cao tốc Bắc – Nam được vận hành bằng các công nghệ tiên tiến, hiện đại, trong đó việc tích hợp hệ thống giao thông thông minh (ITS) là bước tiến quan trọng.
Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Bắc – Nam sẽ được vận hành bằng công nghệ hiện đại (Ảnh minh họa).
Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 52/2017/QH14 ngày 22/11/2017 thông qua chủ trương đầu tư dự án xây dựng một số đoạn đường bộ trên cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2017 – 2020. Đây là dự án trọng điểm quốc gia, nhận được nhiều sự quan tâm đặc biệt của xã hội. Sau 4 năm, Bộ Giao thông Vận tải đã quyết liệt đôn đốc các Ban Quản lý dự án, nhà thầu thi công đẩy nhanh tiến độ xây lắp, đảm bảo chất lượng, sớm hoàn thành theo đúng kế hoạch.
Đầu tư hệ thống giao thông thông minh (ITS)
Hệ thống giao thông thông minh (lntelligent Transport System – ITS) là việc ứng dụng kỹ thuật công nghệ bao gồm các thiết bị cảm biến, điều khiển, điện tử, tin học và viễn thông với cơ sở hạ tầng giao thông để điều hành và quản lý hệ thống giao thông vận tải một cách hiệu quả, đảm bảo an toàn giao thông, giảm thời gian và chi phí đi lại, bảo vệ môi trường…
Hệ thống giao thông thông minh ra đời, với sự tối ưu của các thiết bị truyền thông, công nghệ thông tin và viễn thông làm cho vai trò của con người trong việc điều hành giao thông giảm đi đáng kể mà vẫn đảm bảo tính an toàn.
Việc xây dựng phương án quản lý, vận hành áp dụng hệ thống giao thông thông minh (ITS) đã được tính đến để đồng bộ, thống nhất trên toàn tuyến. Dự án sẽ áp dụng công nghệ thu phí không dừng, lắp đặt các thiết bị để đo lưu lượng giao thông, lắp camera giám sát, cảm biến quan trắc thời tiết… giúp cho nhân viên kỹ thuật có thể giám sát đường một cách thuận lợi hơn.
Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải – Lê Đình Thọ cho biết: “Đối với dự án cao tốc Bắc – Nam, chúng ta phải tham khảo chọn lọc những mô hình tiên tiến, hiện đại để áp dụng phù hợp vào thực tiễn”.
Video đang HOT
Cụ thể, đối với 3 dự án thành phần là Mai Sơn – Quốc lộ 45, Vĩnh Hảo – Phan Thiết, Phan Thiết – Dầu Giây chuyển đổi phương thức đầu tư từ đầu tư PPP (hợp tác công tư) sang sử dụng toàn bộ ngân sách Nhà nước theo Nghị quyết số 117/2020/NQ-QH của Quốc hội, Bộ Giao thông Vận tải yêu cầu các đơn vị rà soát toàn bộ hồ sơ thiết kế kỹ thuật, dự toán hệ thống ITS và các tài liệu liên quan, kịp thời cập nhật, đề xuất điều chỉnh, bổ sung (nếu có) các nội dung liên quan về trình tự thủ tục đầu tư, công nghệ, thiết bị… phù hợp, tuân thủ quy định.
Từ hệ thống đường cao tốc và hệ thống ITS như hiện nay thì việc áp dụng mô hình nào để phù hợp như đường truyền, trung tâm điều hành, trang thiết bị thu thập thông tin và dữ liệu, đầu tư công nghệ cần phải rõ ràng ngay từ đầu. Việc đầu tư hệ thống ITS cần được minh bạch, đưa ra giải pháp tối ưu tạo cơ sở, hành lang pháp lý để các đơn vị thực hiện đúng chủ trương khi triển khai.
Hệ thống giao thông thông minh (ITS) là xu hướng tất yếu được đầu tư đối với của các tuyến đường cao tốc trong tương lai (Ảnh: Internet).
Công nghệ là xu hướng tất yếu của các tuyến cao tốc
Các căn cứ pháp lý hiện hành về hệ thống giao thông thông minh (ITS) tại Việt Nam mới được hình thành, chỉ là bước đầu xây dựng và áp dụng vào thực tế. Có thể kể tên như: Nghị định số 32/2014/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, khai thác và bảo trì công trình đường cao tốc; Thông tư số 90/2014/TT-BGTVT và Thông tư số 45/2018/TT-BGTVT; TCVN 10850:2015 về hệ thống giám sát, điều hành giao thông trên đường cao tốc. Và gần đây nhất là TCVN 12836-1:2020 về Hệ thống giao thông thông minh – Kiến trúc mô hình tham chiếu cho hệ thống giao thông thông minh (ITS) – Phần 1: Các miền dịch vụ, nhóm dịch vụ và dịch vụ ITS. Các văn bản, quy định luôn phải tự điều chỉnh và hoàn thiện theo công nghệ. Bởi thực tế, công nghệ thông minh luôn biến đổi từng giờ, từng phút, từng hoàn cảnh.
Trong thực tế, việc phát hiện tự động các sự cố hoặc sự kiện giao thông một cách liên tục, không gián đoạn, trong thời gian thực (thông tin động) vẫn chưa đạt yêu cầu, do hai thành phần chính trong việc thu thập dữ liệu của ITS trong thiết kế là camera giám sát (CCTV) và camera dò xe (VDS) bị hạn chế về hiệu suất, hiệu năng trong các môi trường và điều kiện thời tiết bất lợi (chói sáng, đêm tối, mưa lớn, sương mù, khói bụi…).
Hệ quả là hệ thống không phát hiện và cảnh báo kịp thời tất cả các sự cố tiềm ẩn nguy cơ tai nạn như: Phương tiện gặp sự cố, người và súc vật băng ngang, vật rơi trên đường, hoặc phương tiện “bám đuôi” nhau không an toàn, chuyển làn đột ngột gây mất tầm nhìn cho phương tiện khác…
Tương tự, việc chủ động điều tiết giao thông cũng còn một khoảng cách khá xa giữa thực tế và mong muốn.
Về nguyên tắc, khi lượng dữ liệu không đủ nhiều và kịp thời để hình thành CSDL lớn (Big Data) thì quá trình phần tích, dự báo và điều khiển giao thông sẽ kém hiệu quả. Giới hạn trong nguyên lý hoạt động của camera khiến dữ liệu về “dòng giao thông trong thời gian thực” khó có chất lượng cao, từ đó cũng làm giảm năng lực điều tiết lượng xe ra vào cao tốc (Ramp-metering) được tối ưu, trong khi đây lại là một trong những điều kiện tiên quyết để lưu thông trên cao tốc được thông suốt.
Chính những yếu tố trên khiến cho nhu cầu phải áp dụng công nghệ mới vào ITS là một nhu cầu bức thiết, xu thế tất yếu đối với các tuyến cao tốc trong tương lai. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ Cách mạng công nghiệp 4.0 là con đường tất yếu phải theo.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong giao thông là xu thế chung của thế giới, nên việc nghiên cứu phát triển thêm hệ thống giao thông thông minh là nhu cầu rất bức thiết. Các chuyên gia và người dân rất quan tâm, hi vọng dự án đầu tư xây dựng tuyến cao tốc Bắc – Nam là tuyến đường có quy mô công nghệ hiện đại, đồng bộ đầu tiên, mở ra kỉ nguyên số cho phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật giao thông tại Việt Nam.
Nhiều yếu tố "đe dọa" tiến độ cao tốc Bắc- Nam nhánh Đông
Tại Công điện mới đây nhất, Thủ tướng Chính phủ chỉ ra nhiều nguyên nhân đang cản trở tiến độ đại dự án cao tốc Bắc- Nam nhánh Đông.
Thủ tướng Chính phủ vừa có công điện 1802/CĐ - TTg về việc tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác giải phóng mặt bằng dự án cao tốc Bắc- Nam nhánh Đông.
Công điện số 1802 nêu rõ, dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 (dự án) là dự án quan trọng quốc gia đã được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, gồm 11 dự án thành phần với tổng chiều dài 654km, đi qua địa phận 13 tỉnh gồm: Ninh Bình, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Tiền Giang, Vĩnh Long.
Thủ tướng yêu cầu các địa phương có dự án cao tốc Bắc- Nam đi qua cần nhanh chóng hoàn thành giải phóng mặt bằng trong năm 2020
Nhưng về tổng thể tiến độ triển khai dự án còn chậm, trong đó công tác giải phóng mặt bằng không đáp ứng tiến độ cam kết với Thủ tướng Chính phủ (bàn giao toàn bộ mặt bằng trong quý II/2020).
Cụ thể, theo báo cáo của Bộ GTVT, đến hết tháng 11/2020, 13 tỉnh, thành phố đã được bàn giao 92% mặt bằng. Song, với khối lượng còn lại, nếu không tập trung thực hiện quyết liệt sẽ không thể hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng trong năm 2020, đặc biệt là các địa phương có khối lượng hoàn thành giải phóng mặt bằng đạt dưới 90% như: Khánh Hòa (73%), Ninh Bình (79%), Hà Tĩnh (82,3%), Đồng Nai (85,7%), Nghệ An (87%).
Bên cạnh đó, tiến độ xây dựng các khu tái định cư tại các địa phương chưa đảm bảo tiến độ yêu cầu, hiện nay chỉ đạt khoảng 53% khối lượng.
Trong đó, một số địa phương thực hiện công tác này rất chậm, gồm: Ninh Bình (hoàn thành 1/5 khu tái định cư); Nghệ An (có 28 khu tái định cư, chưa hoàn thành); Hà Tĩnh (có 2 khu tái định cư, chưa hoàn thành); Khánh Hòa (có 7 khu tái định cư, chưa hoàn thành, trong đó có 1 khu đang thẩm định phê duyệt thiết kế); Ninh Thuận (có 2 khu tái định cư, chưa hoàn thành); Đồng Nai (có 2/3 khu tái định cư, đang thẩm định phê duyệt thiết kế); Tiền Giang (có 1 khu tái định cư, chưa hoàn thành).
Tiến độ thực hiện công tác di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật trên tuyến cũng rất chậm.
Hiện công tác di dời đường điện mới đạt khoảng 12,8% khối lượng, di dời đường ống nước các loại đạt khoảng 18,1% khối lượng, di dời đường cáp viễn thông đạt khoảng 21,5% khối lượng.
Để bảo đảm tiến độ triển khai thực hiện các dự án thành phần thuộc Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bí thư, Chủ tịch UBND các tỉnh có dự án đi qua tiếp tục tập trung chỉ đạo UBND các cấp, các sở, ngành liên quan và Hội đồng giải phóng mặt bằng địa phương khẩn trương xây dựng tiến độ chi tiết để thực hiện hoàn thành khối lượng giải phóng mặt bằng còn lại (khoảng 8 %), cơ bản bàn giao toàn bộ mặt bằng phục vụ thi công dự án trong năm 2020.
Các địa phương phải khẩn trương hoàn thành các thủ tục đầu tư xây dựng, đẩy nhanh tiến độ thực hiện hoàn thành 109 khu tái định cư còn lại trong năm 2020 để di dời các hộ dân vào khu tái định cư (đặc biệt là các tỉnh Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Đồng Nai, Tiền Giang);
Thủ tướng giao Bộ GTVT có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong quá trình thực hiện công tác giải phóng mặt bằng các dự án thành phần; rà soát, kịp thời phát hiện các tồn tại, vướng mắc mới phát sinh về giải phóng mặt bằng, có kế hoạch làm việc cụ thể với các địa phương để kịp thời giải quyết, tháo gỡ.
Các Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT), Công nghiệp viễn thông quân đội (Viettel) cũng được Thủ tướng giao khẩn trương chỉ đạo các chủ quản lý, chủ sử dụng công trình hạ tầng điện, viễn thông, ...thuộc phạm vi quản lý của đơn vị mình khẩn trương hoàn thành công tác di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật nằm trong phạm vi giải phóng mặt bằng đáp ứng tiến độ bàn giao mặt bằng trong năm 2020.
Vì sao cầu Thủ Thiêm 2 tiếp tục lùi tiến độ khai thác vào năm 2023? Dự kiến cầu Thủ Thiêm 2 (nối TP Thủ Đức với quận 1) sẽ đưa vào khai thác năm 2023 thay vì dự kiến hoàn thành trước lễ 30/4/2022. Cầu Thủ Thiêm 2 sẽ đưa vào khai thác năm 2023 thay vì dự kiến hoàn thành trước lễ 30/4/2022 Sở GTVT TP HCM vừa gửi UBND TP báo cáo thẩm định điều chỉnh...