Tưởng chương trình mới giảm tải, ai dè chất thêm gánh nặng lên học sinh lớp 1
Mục tiêu của giáo viên khi dạy lớp 1 là cuối năm các em đọc thông, viết thạo đã là một thành công lớn. Chuyện tưởng đơn giản thế nhưng không dễ gì đạt được.
Những yêu cầu mới đối với các em học sinh lớp 1 là quá nặng
LTS: Trước những yêu cầu của chương trình mới gây ra áp lực cùng sự quá tải về lượng kiến thức đối với các em học sinh lớp 1, cô Đỗ Quyên đã chỉ ra nguyên nhân của vấn đề này.
Theo cô, có khá nhiều nguyên nhân tác động nhưng nguyên nhân căn bản nhất vẫn do chương trình ôm đồm và khá nặng so với lứa tuổi của các em.
Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết.
Học sinh lớp 1 hiện nay đang phải học một chương trình khá nặng so với lứa tuổi. Để đáp ứng được mục tiêu yêu cầu của môn học thì cả thầy và trò đang phải vật vã suốt ngày đêm.
Hy vọng, chương trình mới sẽ giảm tải, sẽ cởi trói để học sinh được trả về đúng tuổi thơ của mình.
Thế nhưng khá nhiều người quan tâm đến giáo dục đã phải thốt lên rằng, yêu cầu thế này thì con cháu mình vào lớp 1 còn phải học nhiều nữa.
Những đòi hỏi vượt sức học trò lớp 1
Học sinh lớp 1 mới bắt đầu làm quen với các âm vần, bảng chữ cái. Học xong lớp 1 các em mới có thể đọc khá trôi chảy một văn bản ngắn. Bên cạnh đó, vẫn có không ít em còn đọc ê a ngắc ngứ.
Thế nhưng chương trình mới lại yêu cầu học sinh lớp 1 phải “hiểu được ý nghĩa hay bài học được rút ra từ văn bản, thể hiện qua khả năng trả lời câu hỏi.
Chẳng hạn: “Em học được điều gì tốt ở nhân vật trong truyện?”, “Câu chuyện/bài thơ khuyên chúng ta điều gì?”.
Yêu cầu còn cao hơn khi các nhà biên tập đòi hỏi học sinh 6 tuổi:
“Bước đầu nhận biết được hình dáng, hành động của nhân vật thể hiện qua ngôn ngữ và hình ảnh trong truyện.
Biết liên hệ tranh minh họa với các chi tiết trong câu chuyện. Nêu được nhân vật yêu thích nhất và bước đầu biết giải thích vì sao.
Đọc mở rộng văn bản văn học với dung lượng khoảng 30 trang/năm, mỗi trang khoảng 110 chữ, có tranh minh họa.
Video đang HOT
Hỏi và trả lời được những câu hỏi đơn giản liên quan đến các chi tiết, nội dung chính được thể hiện tường minh trong văn bản.”
Nhờ sự gợi ý, hỗ trợ, hiểu được đề tài hay thông tin chính của văn bản, thể hiện qua khả năng trả lời câu hỏi, chẳng hạn: “Văn bản này viết về điều gì?”.
Bước đầu biết trả lời những câu hỏi như:
“Viết về ai, sự việc gì?”; “Những sự việc đó diễn ra ở đâu, vào lúc nào?” trước khi viết…
Dù có sự gợi ý, hỗ trợ của giáo viên thì yêu cầu như trên của chương trình mới cũng vượt quá khả năng nhận thức của học sinh.
Những yêu cầu ấy với lớp 2 cũng chỉ khoảng hơn 30% học sinh trong lớp đáp ứng được còn phần đông cũng “bó tay” nói gì đến lớp 1?
Các em đang phải học quá tải ở nhà trường
Những cô bé, cậu bé suốt ngày chỉ hát ca nhưng khi bước vào lớp 1 phải học biết bao môn như những học sinh khối 2, 3.
Ngoài hai môn chủ đạo Toán, tiếng Việt chiếm tới 20 tiết/tuần là môn Tự nhiên và Xã hội, môn Thủ công, Đạo đức, Thể dục, Âm nhạc, Mĩ thuật…để tăng cường Toán, tiếng Việt người ta có thêm các tiết Toán (bổ sung), tiếng Việt (bổ sung), Tập viết, Luyện viết…
Cứ nhìn thời khóa biểu một ngày của học sinh lớp 1 chúng ta sẽ tưởng tượng ra con cháu mình hằng ngày phải vật vã thế nào với bài vở ở trường.
Ví dụ thời khóa biểu của lớp Một vào ngày thứ ba:
Sáng: Thể dục, tiếng Việt, Toán, tiếng Việt (bổ sung).
Chiều: tiếng Việt, tiếng Việt (bổ sung), Toán (bổ sung).
Ngày nào cũng vậy, từ lúc bước chân đến trường cho đến khi bước ra khỏi cổng trường, học sinh chỉ phải ngồi học cặm cụi hết kiến thức Toán đến tiếng Việt. Thế nhưng theo phản ánh của giáo viên lớp 1, khá nhiều em vẫn không theo nổi chương trình.
Chỉ cần học sinh đọc được và nhớ các âm vần mình đã học đã khó.
Nay chương trình mới còn yêu cầu mục tiêu cần đạt cao như thế không biết giáo viên còn phải dạy trò như thế nào đây?
Trẻ khát khao được vui chơi, giải trí
Dù học sinh được học 2 buổi/ngày, nhưng thực tế không như nhận định của Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết rằng học cả ngày cũng là một cách giảm tải.
Chính các em đang chịu tăng tải vì lịch học buổi 2 cũng bị đan dày các môn Toán và tiếng Việt. Cụ thể học Toán (5 tiết chính khóa 3 tiết bổ sung), tiếng Việt (7 tiết chính khóa 5 tiết bổ sung).
Cả năm học nhà trường mới tổ chức diễn văn nghệ một lần. Khi chọn học sinh vào đội múa hát mới thấy được niềm háo hứng của các em đến thế nào.
Những cánh tay xung phong, những lời năn nỉ/; “Cô (thầy) ơi cho em múa với. Thầy (cô) cho em tham gia văn nghệ đi.”
Nhiều phụ huynh kể lại, đi học về chưa bước vào nhà nhiều em đã la to từ ngoài cổng: “Mẹ ơi con được múa rồi”. Vẻ háo hức còn hiện lên trên từng khuôn mặt.
Những ngày ấy, vào lớp học các em vui nhiều hơn. Nhờ thế mà hiệu quả của những tiết học cũng cao hơn.
Mục tiêu cuối cùng của giáo viên khi dạy lớp 1 là cuối năm học sinh của mình đọc thông, viết thạo đã là một thành công lớn. Chuyện tưởng đơn giản thế nhưng không dễ gì đạt được.
Hàng ngày lên lớp, cô trò cùng vật vã từ sáng đến chiều nhưng kết quả vẫn không như mong muốn.
Có khá nhiều nguyên nhân tác động nhưng nguyên nhân căn bản nhất vẫn do chương trình ôm đồm và khá nặng so với lứa tuổi của các em.
Theo Giaoduc.net
Dự thảo môn Khoa học Tự nhiên: Giáo viên dễ dàng tiếp cận phương pháp tích hợp
Là môn học được xây dựng theo hướng tích hợp, dự thảo môn Khoa học Tự nhiên (KHTN) ở cấp THCS đang nhận được sự quan tâm từ dư luận.
ảnh minh họa
Trong đó có những câu hỏi được đặt ra như vì sao cần xây dựng môn tích hợp, việc dạy học tích hợp được triển khai ra sao, số lượng giáo viên có thay đổi? PGS.TS Mai Sỹ Tuấn, thành viên Ban Phát triển chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) - có những lý giải cụ thể hơn về các vấn đề này.
Chương trình nhẹ và hấp dẫn hơn
Trước hết, ông có thể cho biết vì sao chúng ta cần xây dựng môn KHTN là môn học tích hợp ở cấp THCS?
Dạy học tích hợp là xu hướng phổ biến của GD tiếp cận phát triển năng lực trên thế giới hiện nay. Kinh nghiệm quốc tế cũng như thực tiễn Việt Nam cho thấy dạy học tích hợp giúp cho việc học tập của HS gắn liền với thực tiễn hơn, giúp HS phát triển các phẩm chất và năng lực cần thiết, khả năng tổng hợp kiến thức, kỹ năng... thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống, nhất là năng lực giải quyết vấn đề.
Trong chương trình GDPT mới, môn học tích hợp được thực hiện chủ yếu ở cấp tiểu học và cấp THCS. Ở cấp tiểu học, môn học có tên Tự nhiên và Xã hội, cùng với môn Khoa học. Cấp THCS phát triển thành môn KHTN; ở cấp THPT, môn KHTN được chia ra thành các môn học riêng rẽ là Vật lý, Hoá học và Sinh học. Như vậy, xu hướng tích hợp trong chương trình GD mới của chúng ta lần này là tích hợp sâu ở lớp dưới và phân hoá dần ở các lớp trên.
Ngoài ra, việc xây dựng môn KHTN tránh được trùng lặp kiến thức được dạy ở nhiều môn học, nhờ đó phù hợp với thời gian học của HS trong nhà trường hiện nay.
Yêu cầu đặt ra với môn KHTN là xây dựng chương trình môn học và viết SGK vừa đủ đáp ứng yêu cầu của phát triển đất nước trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng 4.0, đồng thời chương trình không quá tải với HS. Để thực hiện điều đó, chương trình đã được xây dựng theo hướng nào, thưa ông?
Về thời lượng, không tăng thời lượng dạy học. Chương trình được xây dựng cả cấp học là 560 tiết chiếm 12% tổng số giờ của tất cả các môn học. So với chương trình của các nước, môn KHTN chiếm từ 11% - 14%, thì môn học của chúng ta là ở mức trung bình. So với chương trình hiện hành (tổng số 3 môn Vật lý, Hóa học và Sinh học là 595 tiết) thì chương trình lần này có ít đi đôi chút nhưng không nhiều.
Về nội dung, môn KHTN có thay đổi làm cho chương trình nhẹ hơn và hấp dẫn hơn đối với người học do môn KHTN không đi sâu mô tả các đối tượng mà đi thẳng vào chức năng và ý nghĩa ứng dụng thực tiễn của chúng, làm cho nội dung có ý nghĩa thực tiễn và gần gũi với cuộc sống hơn. Ví dụ, khi học về thực vật học, chương trình không tập trung vào mô tả cấu trúc của các cơ quan thực vật mà tập trung vào chức năng hoạt động và ý nghĩa thực tiễn của các cơ quan, hệ cơ quan...
Chương trình mới giảm nội dung trùng lặp giữa các môn học Vật lý, Hoá học và Sinh học. Ví dụ, nội dung protit, lipit, gluxit đã dạy trong kiến thức hoá học thì sẽ không cần dạy trong kiến thức sinh học nữa; Khái niệm vật chất đã dạy trong nội dụng hoá học sẽ không cần dạy trong nội dung vật lý nữa; Chủ đề về năng lượng trước đây được dạy riêng trong từng môn nay được tích hợp chung trong một chủ đề; Chủ đề nước trong tự nhiên trước đây được dạy cả ở Hoá học và Vật lý nay được dạy chung trong môn KHTN.
Giáo viên dễ dàng tiếp cận với môn học
Một số ý kiến tỏ ra băn khoăn về việc "một môn ba thầy" sẽ dẫn tới việc thừa giáo viên ở các môn học. Theo ông, nên bố trí giáo viên Vật lý, Hóa học, Sinh học trong môn học mới như thế nào?
Trước hết cần khẳng định, nội dung GD và hình thức tích hợp trong chương trình môn KHTN về cơ bản không làm thay đổi lớn số lượng giáo viên hiện nay. Thời lượng dạy môn KHTN 4 tiết/ tuần, 140 tiết/ năm học và tổng số tiết của cả cấp học là 560 tiết. Như vậy thời lượng không có thay đổi nhiều so với chương trình hiện hành nên không làm dư thừa số giáo viên hiện nay hay làm thiếu hụt giáo viên.
Giáo viên dạy các môn Vật lý, Hóa học và Sinh học hiện nay có thể tham gia dạy học môn KHTN được ngay. Đó là do chương trình môn học lựa chọn hình thức tích hợp phù hợp với khả năng dạy học của giáo viên và điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường. Mức độ tích hợp liên môn, nghĩa là tích hợp nhưng vẫn giữ các mạch nội dung gần với mạch kiến thức của hóa học, vật lý hay sinh học. Các nội dung được sắp xếp gần nhau theo từng mạch nội dung hỗ trợ cho nhau theo nguyên lý của tự nhiên. Ví dụ, khi học về chất trong hóa học thì theo mạch nội dung HS sẽ được học luôn về chất trong sinh học - như chất tế bào.
Việc vẫn giữ các mạch nội dung gần với mạch kiến thức của hóa học, vật lý hay sinh học sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho phân công giáo viên dạy học. Ít nhất, giáo viên môn nào vẫn dạy được mạch nội dung liên quan đến môn của mình đang dạy học. Cụ thể như, giáo viên hóa học sẽ rất thuận lợi khi dạy về mạch nội dung "Chất và sự biến đổi của chất", giáo viên sinh học sẽ thuận lợi khi dạy về mạch nội dung "Vật sống". Tương tự, giáo viên vật lý sẽ thuận lợi khi dạy về mạch nội dung "Năng lượng và sự biến đổi vật lý".
Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, giáo viên dạy môn KHTN rất đa dạng. Có giáo viên chỉ dạy một mạch nội dung (những giáo viên này phần lớn xuất thân là kỹ sư hay cử nhân khoa học chuyển sang học sư phạm và trở thành giáo viên) nhưng cũng nhiều giáo viên dạy được 2 hoặc 3 mạch nội dung (những giáo viên này thường được tập huấn, đào tạo và nhận chứng chỉ trong quá trình công tác). Do vậy, một môn học có nhiều giáo viên đảm nhận là việc bình thường và phổ biến.
Ông có nhắn nhủ hay gì về những điều cần thiết đối với các nhà trường cũng như giáo viên để triển khai dạy tốt môn KHTN ở các cấp học?
Trong những năm đầu tiên thực hiện chương trình mới, nhà trường phổ thông cần bố trí giáo viên phù hợp với mạch nội dung dạy học trên nguyên tắc giáo viên thuận lợi trong việc dạy nội dung nào thì bố trí dạy nội dung đó. Công tác phân công giáo viên và xếp thời khóa biểu chắc chắn sẽ có nhiều thay đổi nhưng cần đảm bảo tính thống nhất của môn học theo sự sắp xếp của các mạch nội dung, không nên tách riêng ra từng phần cho từng giáo viên dạy riêng rẽ.
Từ nay đến khi thực hiện môn KHTN (lớp 6) ít nhất còn 3 năm nữa, đây là thời gian các trường sư phạm tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ giáo viên dạy môn KHTN để có thể dạy tốt môn học. Những giáo viên có khả năng ngoài việc tập huấn dạy nội dung chuyên môn của mình dần dần sẽ được đào tạo theo cơ chế tín chỉ để có thể đảm nhận thêm những nội dung mới mà mình chưa được đào tạo trước đây.
"KHTN là một môn học, không phải 3 môn học riêng rẽ cộng lại một cách cơ học nên hoạt động chuyên môn trong nhà trường cần bố trí lại theo hướng một môn học, giáo viên trong tổ bộ môn KHTN hỗ trợ lẫn nhau những nội dung và chủ đề tích hợp. Ngoài ra, do môn học cần tăng cường hoạt động thực hành và trải nghiệm, nên giáo viên cần phải bỏ nhiều công sức chuẩn bị hơn".
PGS.TS Mai Sỹ Tuấn
Theo Giaoducthoidai.vn
Chương trình mới sẽ khiến trẻ em phải đi học thêm từ 4-5 tuổi Những yêu cầu về kiến thức của chương trình mới đối với học sinh lớp 1 như thế chỉ phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh khối lớp 2. Nếu áp dụng chương trình mới này thì học sinh sẽ buộc phải đi học thêm. (Hình biếm họa về dạy thêm học thêm của Satế) LTS: Đánh giá về dự...