Tự ti về ngoại hình làm gia tăng trầm cảm ở t.rẻ e.m
Theo một nghiên cứu đối với các thanh thiếu niên ở Anh, nguy cơ trầm cảm ở thanh thiếu niên ảnh hưởng bởi những lo ngại về ngoại hình. Sự không hài lòng về cơ thể làm gia tăng đáng kể nguy cơ trầm cảm ở độ t.uổi này.
Không hài lòng về cơ thể và ngoại hình khiến gia tăng tỷ lệ mắc trầm cảm ở thanh thiếu niên. Ảnh minh họa
Nghiên cứu được tiến hành bởi nhóm các nhà khoa học với trưởng nhóm là giáo sư Anna Bornioli, giảng viên tại Đại học Erasmus (Rotterdam, Hà Lan) cho kết luận: “Sự tự ti và lo ngại về ngoại hình của bản thân là hiện trạng đáng chú ý và nên được xem là một vấn đề sức khỏe cộng đồng”. Kết quả nghiên cứu trên được công bố trực tuyến bởi Tạp chí Dịch tễ học (Anh).
Để tiến hành nghiên cứu, các nhà khoa học đã thu thập dữ liệu từ hơn 3.700 thanh thiếu niên tại Anh ở độ t.uổi 14. Nhóm t.rẻ e.m tham gia nghiên cứu được yêu cầu tự đ.ánh giá mức độ hài lòng đối với ngoại hình của cơ thể. Nhìn chung, cả t.rẻ e.m trai và t.rẻ e.m gái đều có mức độ hài lòng nhẹ đối với cơ thể. Tuy nhiên, mức độ không hài lòng của các b.é g.ái cao hơn các bé nam.
Theo các nhà nghiên cứu, t.rẻ e.m gái có xu hướng không hài lòng về đùi, bụng và cân nặng của mình. Trong khi đó, t.rẻ e.m nam có xu hướng không thích hình dáng cơ thể, bụng và hông. Ngoài ra, kết quả cũng chỉ ra, khoảng 33% t.rẻ e.m gái và khoảng 20% t.rẻ e.m trai không hài lòng với cân nặng của mình. Hơn nữa, khoảng 25% các b.é g.ái và khoảng 20% các b.é t.rai không hài lòng với ngoại hình hiện tại. Đến độ t.uổi 18, t.rẻ e.m được tiến hành đ.ánh giá các triệu chứng trầm cảm.
Tỷ lệ mắc trầm cảm ở t.rẻ e.m và thanh thiếu niên đang có xu hướng gia tăng. Ảnh minh họa
Kết quả đ.ánh giá trầm cảm cho thấy, 10% t.rẻ e.m gái và 20% t.rẻ e.m trai báo cáo ít nhất một lần giai đoạn trầm cảm nhẹ; gần 7% các b.é g.ái và 3% t.rẻ e.m trai báo cáo ít nhất một lần giai đoạn trầm cảm trung bình; và 1,5% t.rẻ e.m gái và 0,7% t.rẻ e.m trai có ít nhất một lần trầm cảm nặng.
Từ đó, các nhà khoa học đ.ánh giá, mức độ không hài lòng với cơ thể ở độ t.uổi 14 có ảnh hưởng đến tỷ lệ trầm cảm của thanh thiếu niên tại Anh. Ở t.rẻ e.m gái, mỗi lần gia tăng mức độ không hài lòng về ngoại hình khiến tăng đến 63% nguy cơ mắc trầm cảm nhẹ, 67% mắc trầm cảm nặng và 84% mắc trầm cảm nặng ở độ t.uổi 18.
Video đang HOT
Đối với các b.é t.rai, mỗi lần gia tăng sự lo ngại về cơ thể ở độ t.uổi 14 làm tăng đến 50% nguy cơ mắc trầm cảm nhẹ hoặc trung bình và 285% nguy cơ mắc trầm cảm nặng ở độ t.uổi 18.
Nhóm nghiên cứu cho biết thêm, không hài lòng về cơ thể ảnh hưởng đến khoảng 61% thanh thiếu niên trên toàn thế giới. Tình trạng này rất phổ biến trong giới trẻ hiện nay và dường như có xu hướng ngày càng gia tăng.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra, những liệu pháp giúp trẻ giảm tự ti về cơ thể của mình có thể được phát triển để điều trị trầm cảm ở thanh thiếu niên.
“Giai đoạn vàng” để hàn gắn tổn thương ở trẻ
T.uổi mới lớn có thể là thời điểm để thiết lập lại hệ thống, giúp mọi người đối phó với căng thẳng hiệu quả.
T.rẻ e.m gần gũi với cha mẹ có hệ thống nội tiết thần kinh khỏe mạnh. Ảnh minh họa
Hậu quả từ thiếu thốn tình cảm
Megan Gunnar - nhà tâm lý học phát triển tại Đại học Minnesota ở Minneapolis (Mỹ) và là người đã dành hai thập kỷ để nghiên cứu tác động của nghịch cảnh đầu đời ở những đ.ứa t.rẻ được nhận nuôi, cho biết: "Trọng tâm của công việc này là: Những nghịch cảnh khắc nghiệt như mồ côi, thay vì những thử thách hằng ngày, có thể có khả năng phục hồi".
T.uổi thơ thường xuyên gặp khó khăn hoặc bị lạm dụng cũng có thể thay đổi hệ thống nội tiết thần kinh. Qua đó, điều chỉnh cách cơ thể phản ứng với căng thẳng. Các vấn đề trong việc phản ứng với căng thẳng có thể khiến t.rẻ e.m đấu tranh hành vi, tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, tiểu đường và hàng loạt vấn đề về sức khỏe.
Tuy nhiên, nhà tâm lý Gunnar đã chỉ ra, phản ứng căng thẳng bị suy giảm có thể trở lại bình thường trong t.uổi dậy thì. Nhờ đó, khả năng mất cân bằng do tổn thương sớm có thể được xóa bỏ.
Khi não bộ nhận biết được mối đe dọa - thậm chí là mối đe dọa tạm thời, chẳng hạn như kỳ thi, mức hormone adrenaline sẽ tăng lên, tạo ra phản ứng "chiến đấu hoặc bỏ chạy". Nhịp thở và nhịp tim tăng vọt. Lòng bàn tay ướt mồ hôi. Thị giác và các giác quan khác cảm nhận rõ ràng. Trước đó, não sẽ gửi các sứ giả hóa học để kích thích các tuyến thượng thận tiết ra cortisol.
Cortisol đưa đường vào m.áu để tạo năng lượng nhanh chóng. Hormone này cũng làm chậm quá trình tiêu hóa, phản ứng miễn dịch, tăng trưởng và các quá trình khác được coi là không cần thiết trong tình huống chiến đấu hoặc bỏ chạy.
Khi mối đe dọa qua đi, phản ứng chiến đấu hoặc bỏ chạy kết thúc, ít nhất là ở một người có phản ứng căng thẳng đang hoạt động như bình thường. Nồng độ adrenaline và cortisol giảm, nhịp tim chậm lại và các hệ thống khác hoạt động bình thường trở lại.
Các nhà nghiên cứu đã vạch ra những tác nhân chính trong phản ứng căng thẳng. Các tín hiệu thần kinh - nội tiết liên quan hình thành trục HPA. Đây là viết tắt của vùng dưới đồi - tuyến yên - thượng thận. Khi có thể đo cortisol từ các mẫu nước bọt thay vì phải lấy m.áu hoặc nước tiểu, bà Gunnar bắt đầu nghiên cứu cách trục HPA ảnh hưởng đến não và hành vi của con người.
Từ các thí nghiệm trên trẻ sơ sinh vào giữa những năm 1980, Gunnar nhận thấy, mối quan hệ an toàn giữa cha mẹ và trẻ là điều quan trọng đối với hệ thống nội tiết thần kinh khỏe mạnh. Từ đó, giúp trẻ sơ sinh đối phó với các tình huống căng thẳng, như tiêm chủng.
Do đó, chuyên gia này tự hỏi, điều gì sẽ xảy ra nếu cảm giác an toàn đó bị gián đoạn lâu dài. Một báo cáo được công bố vào tháng 11 năm ngoái bởi Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) đã chỉ ra: So với các bạn cùng lứa, người trưởng thành từng trải qua chấn thương thời thơ ấu có nhiều khả năng hút thuốc, uống rượu, bỏ học, mắc bệnh tim và một loạt bệnh mãn tính khác.
Giữa những năm 1990, bà Gunnar đã cùng nhóm nghiên cứu đến một trại trẻ mồ côi ở miền đông Romania.
"Bạn bước vào những khu này, và đột nhiên những đ.ứa t.rẻ nói "Mẹ, mẹ", vươn tay lên để được bế", Gunnar chia sẻ.
Bà Gunnar đã mang các lọ nhỏ chứa mẫu nước bọt của trẻ mồ côi tại đây về. Kết quả cho thấy, mức độ cortisol của t.rẻ e.m mồ côi thấp hơn mức trung bình của trẻ mới biết đi. Phát hiện đó là dẫn chứng của sự tác động từ tình trạng thiếu thốn tình cảm lâu dài đối với phản ứng căng thẳng.
Sự thay đổi ở t.uổi dậy thì
Theo một khảo sát, nhiều cha mẹ ở Minnesota nhận con nuôi vào những năm 1990 nhận thấy, những đ.ứa t.rẻ này có vấn đề về hành vi. Những đ.ứa t.rẻ này có nồng độ cortisol thấp hơn bạn cùng lứa - người không có vấn đề về hành vi.
"Khi đối mặt với khó khăn kéo dài, có khả năng khuyến khích mức cortisol cao nguy hiểm, phản ứng căng thẳng yếu - tức là tạo ra ít cortisol hơn - có thể là "cách tự nhiên để bảo tồn não và cơ thể", bà Gunnar suy đoán.
Theo thời gian nghiên cứu những người được nhận nuôi, bà Gunnar nhận thấy, những trẻ có cortisol thấp thường bước vào lớp mẫu giáo với các vấn đề về chú ý. Phản ứng căng thẳng dễ dàng kéo dài đến t.uổi trung niên.
Nhóm của bà Gunnar đã mời 280 t.rẻ e.m từ 7 - 14 t.uổi vào phòng thí nghiệm. Số này bao gồm 122 t.rẻ e.m được nhận nuôi từ các cơ sở và 158 t.rẻ e.m ở các gia đình bình thường. Trước và sau các nhiệm vụ nói và toán học, các nhà nghiên cứu đã thu thập mẫu nước bọt của mỗi đ.ứa t.rẻ để đo mức cortisol.
Tình trạng dậy thì của những người tham gia được đ.ánh giá theo thang điểm từ 1 - 5. Giai đoạn 1 là không có những thay đổi cơ thể đáng chú ý và giai đoạn 5 có nghĩa là sự trưởng thành về giới tính đã hoàn thành.
Kết quả là, những đ.ứa t.rẻ được nhận làm con nuôi đã giảm mức cortisol trước và sau khi làm nhiệm vụ so với những đ.ứa t.rẻ sống với cha mẹ ruột. Để xác nhận việc hiệu chuẩn lại HPA đã xảy ra trong cùng một đ.ứa t.rẻ, thay vì chỉ so sánh giữa các nhóm t.uổi, Gunnar và các đồng nghiệp đã đưa những người tham gia vào các bài kiểm tra giống nhau một và hai năm sau đó, tổng cộng ba phiên hằng năm.
Kết quả cho thấy, cơ thể có thể điều chỉnh lại phản ứng với các tác nhân gây căng thẳng trong t.uổi dậy thì. Nói cách khác, điều gì đó xảy ra ở t.uổi dậy thì - nhưng không sớm hơn ở thời thơ ấu, cho phép não bộ chuyển trở lại phản ứng căng thẳng bình thường, vốn bị sai lệch do chấn thương sớm.
Matthew Duggan - nhà trị liệu ở Long Beach, California cho rằng, những phát hiện này có thể áp dụng cho nhiều t.rẻ e.m gặp khó khăn trong việc quản lý cảm xúc. Trẻ cũng có thể kết nối với những người khác, nếu từng tổn thương do bị lạm dụng hoặc thiếu sự quan tâm đầu đời.
Duggan nói rằng, nghiên cứu của Gunnar sẽ hữu ích hơn nữa nếu nó đ.ánh giá sự thay đổi hành vi của những người tham gia - ví dụ: Bằng cách phỏng vấn cha mẹ, giáo viên hoặc thanh thiếu niên.
Chuyện gì sẽ xảy ra khi mẹ uống rượu bia trong thai kỳ? Nghiên cứu được công bố trên chuyên san American Journal of Psychiatry cho thấy người mẹ dù uống rượu bia ở mức thấp trong thai kỳ cũng có thể tác động đến sự phát triển não bộ của trẻ. Người mẹ uống rượu bia trong thai kỳ có thể tác động đến sự phát triển não bộ của trẻ - SHUTTERSTOCK Để rút...