Tự chủ không phải là tự do
Từ đòi hỏi của quá trình phát triển, đến hình thành hệ thống cơ chế, chính sách và ứng dụng vào thực tiễn là một quá trình dài vừa làm vừa rút kinh nghiệm ngay ở bản thân các cơ sở giáo dục lẫn cơ quan quản lý nhà nước như trao đổi của bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học – Bộ Giáo dục và Đào tạo…
Bà Nguyễn Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học – Bộ Giáo dục và Đào tạo
Tự chủ trong giáo dục đại học là một xu thế phù hợp với đòi hỏi của cuộc sống cũng như hội nhập quốc tế. Giáo dục đại học Việt Nam liệu có “chậm chân” trong thực hiện tự chủ, thưa bà?
Ở Việt Nam, từ năm 1993 đã bắt đầu xây dựng mô hình đại học tự chủ thông qua việc thành lập Đại học Quốc gia Hà Nội và năm 1995 thành lập ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh trực thuộc Chính phủ. Từ năm 2005 đến nay đã có sáu văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành về tự chủ đại học… Theo các quy định đã có, tất cả các cơ sở giáo dục đại học được tự chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế… Một số cơ sở đã thực hiện quyền tự chủ ở mức độ cao hơn phù hợp với năng lực như: Đại học Quốc gia, đại học vùng được tự chủ mở ngành, liên kết đào tạo với nước ngoài; Một số trường được tự chủ về tài chính trước Nghị quyết 77 của Chính phủ như các trường ĐH: Kinh tế quốc dân, Kinh tế TP Hồ Chí Minh, Ngoại thương; hoặc được tự chủ cao về hoạt động chuyên môn như các trường ĐH: Hà Nội, Bách khoa Hà Nội…
Các trường đại học liệu đã tự chủ đúng hướng hay vẫn chủ yếu hướng đến tự chủ tài chính, tập trung vào nguồn thu học phí tiềm ẩn nguy cơ rủi ro? Theo bà, đâu là hướng tự chủ hợp lý cho giáo dục đại học?
Thực tế, hoạt động chuyên môn là lĩnh vực quan trọng nhất cần được tự chủ đầu tiên và các trường đã có quyền tự chủ ở mức độ khá cao trong hoạt động chuyên môn. Về tài chính, tài sản, tổ chức và nhân sự, các trường vẫn phải thực hiện các quy định về thủ tục, thẩm quyền, chế độ tuyển dụng và thôi việc…
Như vậy, để các trường được thực sự tự chủ, trước hết, cần chuyển nhanh từ hỗ trợ theo cơ chế cấp phát bình quân sang cơ chế Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công căn cứ vào chất lượng đầu ra hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công. Nhà nước tạo cơ chế thuận lợi và quy định trách nhiệm của các bên trong mối quan hệ hợp tác giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp; trong việc thương mại hóa sản phẩm khoa học… để tạo điều kiện tăng nguồn thu từ hoạt động khoa học công nghệ, phục vụ cộng đồng… Học phí được tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo, công khai, minh bạch để thị trường lựa chọn.
Hướng tự chủ cho cơ sở giáo dục đại học như bà vừa trao đổi nhưng thực tế không phải trường nào cũng thực hiện nghiêm các quy định. Bởi trong tự chủ, điều quan trọng là cần thành lập Hội đồng trường nhưng vẫn còn bị bỏ ngỏ. Phải chăng vì Hội đồng trường không có quyền lực thực tế?
Hội đồng trường đã được quy định từ Điều lệ trường đại học năm 2003, tại Luật Giáo dục đại học 2012 nhưng hầu như không được thực hiện. Có nguyên nhân do Hội đồng trường không có thực quyền khi ở trên còn cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý ngành, cơ quan quản lý địa phương; trong cơ sở thì Hiệu trưởng là người quản lý điều hành hầu hết mọi hoạt động. Khi tổng kết 5 năm thi hành Luật GDĐH có tới hơn 70% Hiệu trưởng trường ĐH công lập kiêm Bí thư đảng ủy nhưng chỉ 34% số cơ sở GDĐH công lập có Hội đồng trường. Các cơ quan chủ quản, cơ quan thanh kiểm tra, cơ quan kiểm toán… cũng phải quán triệt các quy định nói trên. Ngay từ Luật GDĐH 2012 đã xác định rõ Hội đồng trường có quyền quyết nghị về cơ cấu tổ chức và phương hướng đầu tư phát triển của nhà trường; về việc thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể các tổ chức của cơ sở giáo dục đại học… nhưng tiếc rằng, một số cơ quan chủ quản vẫn còn “ôm” việc này.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (năm 2018) đã giải quyết phần lớn các bất cập, bảo đảm để Hội đồng trường có thực quyền trong việc quyết định về tổ chức bộ máy; quyết định nhân sự, tiêu chuẩn Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, tiêu chuẩn giảng viên theo quy định của pháp luật. Hiệu trưởng trường đại học công lập do cơ quan quản lý có thẩm quyền công nhận trên cơ sở đề xuất của Hội đồng trường. Luật đã đề cao vai trò của Hội đồng trường, quy định cụ thể quyền quyết định của Hội đồng trường trong lĩnh vực tuyển sinh, mở ngành, học phí… Để thúc đẩy quá trình thành lập Hội đồng trường và thực hiện Nghị quyết 19, cần có hướng dẫn cụ thể quy định “bí thư đảng ủy kiêm chủ tịch hội đồng trường” trong các trường công lập.
Tự chủ trong giáo dục đại học cũng được hiểu là giảm sự can thiệp của các cơ quan quản lý Nhà nước vào công việc cụ thể của các trường. Nhưng cũng không thể coi tự chủ là tự do không có khuôn khổ, thưa bà?
Đúng là có hiện tượng, một số lãnh đạo của một số trường vẫn coi tự chủ là tự do, không phải tuân theo các tiêu chuẩn, quy trình bảo đảm chất lượng được quy định trong các văn bản pháp luật; thiếu công khai, minh bạch thông tin, thiếu dân chủ, có tư tưởng phủ nhận các văn bản dưới luật và không tuân thủ thanh tra, kiểm tra… Điều này cũng khiến dư luận xã hội lo lắng về việc liệu tự chủ có dẫn đến buông lỏng quản lý hay không?
Vì vậy, để các cơ quan quản lý cũng như dư luận xã hội yên tâm, các trường cần có nhận thức đúng, chuẩn bị tốt điều kiện và thực hiện đầy đủ các nguyên tắc, yêu cầu của tự chủ đại học. Thí dụ: Thành lập Hội đồng trường, thực hiện kiểm định chất lượng, ban hành và tổ chức thực hiện quy chế tổ chức và hoạt động; quy chế tài chính; quy chế, quy trình, quy định quản lý nội bộ khác và có chính sách bảo đảm chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn do Nhà nước quy định; công khai điều kiện bảo đảm chất lượng, kết quả kiểm định, đặc biệt là tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm và thông tin khác theo quy định của pháp luật; phân cấp quyền tự chủ đến các đơn vị, cá nhân trong trường để phát huy trí tuệ, sự năng động, sáng tạo của toàn trường…
Video đang HOT
Ảnh | HẢI THANH
Tự chủ không phải là tự do nhưng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học có hiệu lực từ 1-7 tới tạo khá nhiều điều kiện cho các trường thực hiện tự chủ. Vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ chuyển hướng thế nào để vừa tôn trọng quyền tự chủ nhưng cũng bảo đảm giám sát các trường gắn tự chủ với tự chịu trách nhiệm và giải trình xã hội?
Bộ sẽ tiến hành rà soát, hoàn thiện các quy định về chuẩn chất lượng, các quy định công khai, minh bạch thông tin về điều kiện bảo đảm chất lượng và các chỉ số đầu ra (KPIs) gồm: chất lượng đào tạo (công bố các chương trình đã được kiểm định…; công bố chuẩn đầu ra; tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp…); chất lượng nghiên cứu khoa học (số công trình khoa học được ứng dụng và thực tiễn, số bài báo công bố trên các tạp chí khoa học uy tín trong và ngoài nước…); chế độ sử dụng, tuyển dụng cũng như các chính sách đối với giảng viên, cán bộ quản lý; chế độ, chính sách đối với người học… để cơ quan có thẩm quyền quản lý, xã hội và người học giám sát chất lượng đào tạo.
Đáng chú ý, công tác kiểm định chất lượng đối với các cơ sở giáo dục đại học được triển khai trong toàn hệ thống, đặc biệt khuyến khích cơ sở tham gia kiểm định chất lượng theo chuẩn khu vực và quốc tế; tăng cường minh bạch thông tin về điều kiện bảo đảm chất lượng và chất lượng giáo dục đại học để xã hội lẫn người học giám sát. Cũng lưu ý rằng, những nội dung Luật đã quy định, thì các trường được thực hiện ngay khi Luật có hiệu lực mà không cần hướng dẫn hay đợi sửa đổi các quy định trước đó. Một đòi hỏi nữa là vẫn cần sửa hệ thống pháp luật hiện hành cho đồng bộ, thống nhất, nâng cao hiệu quả của việc điều chỉnh pháp luật đối với tự chủ đại học.
Trân trọng cảm ơn bà!
Theo tuyengiao.vn
Vai trò của Kiểm toán Nhà nước với hoạt động tuyển sinh ở các trường đại học công lập
Cơ chế tự chủ đối với các trường đại học công lập ở nước ta ngày càng phát huy hiệu quả tích cực, khẳng định sự đúng đắn của chủ trương, chính sách mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Tự chủ đã tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho các trường đại học công lập trong công tác tuyển sinh, tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố thuận lợi, cơ chế này còn tiềm ẩn nhiều rủi ro về pháp lý, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học. Trong bối cảnh này, cần tiếp tục tăng cường vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong việc phát hiện các lỗ hổng pháp lý, góp phần tích cực vào hoàn thiện cơ chế, chính sách tự chủ nói chung và làm lành mạnh công tác tuyển sinh của các trường đại học công lập nói riêng.
Pháp lý về tự chủ và công tác tuyển sinh của các trường đại học công lập
Đáp ứng yêu cầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tinh thần Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, ngày 25/4/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL), trong đó có các trường đại học công lập (ĐHCL).
Theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, các cơ sở giáo dục ĐHCL được thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính nhằm phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội; tăng nguồn thu, từng bước nâng cao thu nhập cho người lao động; thực hiện chủ trương xã hội hoá trong việc cung cấp dịch vụ cho xã hội, huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp, góp phần giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước (NSNN).
Nhờ có cơ chế tự chủ, các trường ĐHCL đã chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn kinh phí NSNN giao để thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả; nhiều cơ sở đã huy động nguồn vốn xã hội hóa để mở rộng hoạt động sự nghiệp, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội, phát triển nguồn thu học phí tạo nguồn cải cách tiền lương; tiết kiệm chi, tăng thu nhập cho viên chức, giảng viên...; chủ động sử dụng tài sản, nguồn nhân lực để phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng; kiểm soát chi tiêu nội bộ trên cơ sở đảm bảo tính dân chủ; phát huy tính chủ động, sáng tạo của người lao động...
Nhằm tiếp tục đẩy mạnh giao quyền tự chủ đầy đủ và cao hơn cho các ĐVSNCL, ngày 14/02/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP (thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP) quy định cơ chế tự chủ của ĐVSNCL theo hướng tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và khuyến khích các đơn vị có điều kiện vươn lên tự chủ ở mức cao.
Việc tự chủ của các đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy nhân sự và tài chính được quy định tương ứng với từng loại hình ĐVSNCL, trên nguyên tắc các đơn vị tự đảm bảo kinh phí hoạt động càng nhiều thì mức độ tự chủ càng cao, khuyến khích các đơn vị tăng thu, giảm dần bao cấp từ NSNN. Trong đó, có bao cấp tiền lương tăng thêm để dần chuyển sang các loại hình đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên, đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư.
Nhìn chung, kể từ khi có hiệu lực đến nay, Nghị định số 43/2006/NĐ-CP và Nghị định số 16/2015/NĐ-CP đã phát huy hiệu quả. Kết quả triển khai các Nghị định trên là minh chứng thiết thực, khẳng định việc chuyển đổi cơ chế quản lý hệ thống giáo dục đại học của nước ta từ mô hình Nhà nước thực hiện sang mô hình Nhà nước giám sát là chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu hướng phát triển đại học của thế giới. Tự chủ không những làm giảm áp lực NSNN, mà còn mở ra cơ hội cho các cơ sở đào tạo phát huy tính chủ động, sáng tạo, đổi mới trong giáo dục, đào tạo.
Xét về khía cạnh tài chính, nguồn thu của các trường ĐHCL gồm: (i) Kinh phí do NSNN cấp; (ii) Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp; (iii) Nguồn viện trợ, tài trợ, quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật; (iv) Nguồn khác. Trong xu hướng gia tăng mức độ tự chủ tài chính của các trường đại học, nguồn thu từ học phí ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, (khoảng 50-70% tổng thu của các trường). Phần kinh phí NSNN cấp có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên trong thực tế, nguồn thu từ học phí của các trường không hoàn toàn thuận lợi như nhau, do phụ thuộc vào lượng sinh viên được đào tạo và mức thu học phí.
Hiện nay, chỉ tiêu tuyển sinh là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến số lượng sinh viên được đào tạo. Cách thức xác định và quyết định chỉ tiêu tuyển sinh của các trường đại học được quy định tại Thông tư số 06/2018/TT-BGDĐT ngày 28/02/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các cơ sở giáo dục đại học căn cứ vào các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội được quyền tự chủ và chịu trách nhiệm giải trình trong xác định chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm. Chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm của các trường được xác định các tiêu chí theo:
(i) Số giảng viên quy đổi. Số giảng viên quy đổi phụ thuộc vào số lượng giảng viên và chức danh của giảng viên. Giảng viên có trình độ cử nhân hệ số quy đổi 0,3; trình độ thạc sỹ: 1,0; trình độ tiến sỹ: 2,0; chức danh phó giáo sư: 3,0; chức danh giáo sư: 5,0.
(ii) Diện tích sàn xây dựng trực tiếp phục vụ đào tạo thuộc sở hữu của cơ sở giáo dục tính trên một sinh viên chính quy của các hạng mục công trình và yêu cầu về chủng loại, số lượng học liệu, trang thiết bị tối thiểu theo yêu cầu của chương trình đào tạo và nghiên cứu khoa học.
(iii) Nhu cầu lao động của thị trường và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Khả năng tuyển sinh của một trường đại học phụ thuộc chủ yếu vào năng lực nội tại, với yếu tố cơ bản là giảng viên (số lượng và trình độ) và cơ sở vật chất. Muốn gia tăng số lượng sinh viên, thu hút được nhiều người tham gia ứng tuyển thì các trường phải xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên, cùng với đó là đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng đào tạo. Tuy vậy, thực tiễn cũng cho thấy, các trường có khả năng tuyển sinh (có nghĩa là được phép tuyển sinh) nhưng không tuyển đủ chỉ tiêu. Thực tiễn này đang diễn ra phổ biến ở những ngành, chuyên ngành đào tạo hẹp.
Mức thu học phí của các trường đại học được khống chế theo giới hạn trần. Nghị quyết số 77/ NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với một số cơ sở giáo dục ĐHCL quy định: Cơ sở giáo dục ĐHCL khi cam kết tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi đầu tư được thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện và quyết định mức học phí bình quân (của chương trình đại trà) tối đa bằng mức trần học phí do Nhà nước quy định cộng với khoản chi thường xuyên NSNN cấp bình quân cho mỗi sinh viên công lập trong cả nước; quyết định mức học phí cụ thể (cao hoặc thấp hơn mức học phí bình quân) đối với từng ngành, nghề, chương trình đào tạo theo nhu cầu người học và chất lượng đào tạo, bảo đảm mức học phí bình quân trong nhà trường không vượt quá giới hạn mức học phí bình quân tối đa nêu trên; thực hiện công khai mức học phí cho người học trước khi tuyển sinh. Nghĩa là, các trường được phép xác định mức học phí cụ thể của từng ngành, chuyên ngành đào tạo nhưng mức học phí bình quân không vượt quá giới hạn cho phép.
Mức trần học phí đối với các chương trình đào tạo đại trà trình độ đại học tại các cơ sở giáo dục công lập được phân theo 2 nhóm sau: (i) Cơ sở giáo dục tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên và chi đầu tư; (ii) Cơ sở giáo dục chưa tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên và chi đầu tư và áp dụng theo các khối ngành, chuyên ngành đào tạo. Học phí từ năm học 2015 - 2016 đến năm học 2020 - 2021 đã được quy định chi tiết tại Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ.
Một số khó khăn trong tuyển sinh của các trường đại học công lập tự chủ
Có thể khẳng định, cơ chế tự chủ đã tạo lập môi trường tích cực để các trường đại học phát triển. Tuy nhiên, cơ hội và thách thức đối với các trường không giống nhau. Nhiều trường có điều kiện để bứt phá, vươn lên, nhưng cũng không ít cơ sở giáo dục gặp khó khăn và chưa tìm được lời giải. Bài viết phân tích một số khó khăn mang tính chung nhất đối với các trường đại học trong công tác tuyển sinh, những tồn tại, khó khăn này ứng với tất cả các trường ĐHCL nước ta.
Thứ nhất, hầu hết các cơ sở giáo dục đại học gặp phải hiện nay chính là mâu thuẫn về quyền tự chủ tài chính nhưng lại bị giới hạn về mức thu học phí; do vậy, muốn gia tăng nguồn thu thì các trường phải đẩy mạnh công tác tuyển sinh. Rõ ràng, học phí là nguồn thu cơ bản của các trường đại học trong bối cảnh tự chủ, nguồn thu này phải dần đủ lớn để trang trải những chi phí mà cơ sở giáo dục thực hiện để cung cấp dịch vụ giáo dục đại học.
Tuy vậy, theo quy định hiện hành, các cơ sở giáo dục đại học chỉ được áp dụng mức thu không vượt quá giới hạn tối đa (đang được xây dựng ở mức thấp). Điều này khiến nhiều trường đại học không có điều kiện gia tăng các khoản chi để thúc đẩy các yếu tố cần thiết đảm bảo chất lượng đào tạo như: đầu tư phát triển giảng viên, tăng chi đầu tư cơ sở vật chất...
Mối quan hệ giữa quyền tự chủ với giới hạn trần về học phí đã không còn phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường. Người thụ hưởng muốn được cung cấp dịch vụ chất lượng tốt và nhà cung cấp sẵn sàng cung cấp nhưng lại không được "bán" với "giá" tương xứng với chất lượng sản phẩm của mình. Vòng luẩn quẩn chi phí thấp dẫn đến chất lượng thấp sẽ tiếp diễn và không được cải thiện nếu không có sự đột phá. Giải pháp để gỡ khó đối với không ít trường hiện nay là tăng chỉ tiêu đào tạo. Điều này mang lại khá nhiều hệ lụy và ảnh hưởng về lâu dài nếu sự gia tăng quy mô đào tạo không gắn với nâng cao chất lượng đào tạo.
Thứ hai, nhiều trường đại học đã phải áp dụng những biện pháp có khả năng ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục để đảm bảo tuyển sinh đủ chỉ tiêu. Hạ thấp điểm chuẩn để gia tăng cơ hội trúng tuyển đã được không ít cơ sở giáo dục đại học áp dụng và trong thực tế đã xuất hiện tình trạng đánh đổi giữa chất lượng với quy mô đào tạo. Khó khăn cho một cơ sở giáo dục trong việc đảm bảo cung ứng cho xã hội những sinh viên tốt nghiệp ra trường có chất lượng cao, trong khi đầu vào chỉ tuyển được những học sinh có trình độ thấp.
Thực tế cho thấy, uy tín của một số trường đã bị giảm sút do chạy theo quy mô đào tạo, buông lỏng quản lý. Sự cạnh tranh giữa các trường trong tuyển sinh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục. Hiện tượng "chiều lòng" người học có xu hướng gia tăng, tác động trực tiếp đến duy trì kỷ luật, kỷ cương trong quản lý đào tạo của không ít trường đại học.
Thứ ba, thu nhập của phần đa giảng viên đại học (đặc biệt là giảng viên trẻ) còn thấp, chưa tạo được động lực thúc đẩy nâng cao trình độ chuyên môn. Theo quy định hiện hành, các cơ sở giáo dục ĐHCL chi trả tiền lương theo ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định. Cơ chế tiền lương hiện mang đặc tính cào bằng là chủ yếu.
Giới hạn trần học phí cũng là nút thắt khiến các trường đại học không có đủ nguồn tài chính để cải thiện thu nhập cho giảng viên, do đó, không tạo được sự hấp dẫn để thu hút và giữ chân những giảng viên có trình độ. Điều này ảnh hưởng đến khả năng tuyển sinh của các trường đại học do không nâng cao được chất lượng giáo dục (xét trên khía cạnh trình độ, năng lực của giảng viên) để thu hút nhiều học sinh tham gia ứng tuyển.
Thứ tư, công tác tổ chức, quản lý, sử dụng nguồn thu từ người học thực hiện chưa đúng với quy định của pháp luật. Tình trạng lạm thu, đặt ra nhiều khoản thu không theo quy định, vượt định mức, sai đối tượng, tuyển sinh vượt chỉ tiêu, trích lập các quỹ không phù hợp... có thể xảy ra do áp lực gia tăng chi tiêu của các cơ sở giáo dục ĐHCL.
Vai trò của Kiểm toán Nhà nước đối với hoạt động tuyển sinh ở các trường đại học công lập tự chủ
Kiểm toán Nhà nước, cơ quan do Quốc hội thành lập, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công, thông qua hoạt động kiểm toán tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ chủ quản các trường ĐHCL, các cơ sở giáo dục đại học... chú trọng những khía cạnh để góp phần (gián tiếp) lành mạnh hóa công tác tuyển sinh của các trường ĐHCL trong bối cảnh thực hiện cơ chế tự chủ, thể hiện cụ thể như:
Một là, đánh giá môi trường pháp lý về cơ chế tự chủ của các cơ sở giáo dục ĐHCL, từ đó, kiến nghị hoàn thiện chính sách: Thực tiễn thời gian qua cho thấy, cơ chế tự chủ bên cạnh tạo động lực phát triển cho nhiều trường ĐHCL nhưng cũng gây không ít khó khăn cho các trường trong quá trình thực hiện. Nhiều cơ sở giáo dục ĐHCL không muốn tự chủ hoặc chậm gia tăng mức độ tự chủ, bởi còn tồn tại nhiều quy định pháp luật ràng buộc đan chéo hoặc mâu thuẫn.
Thực trạng này đang đặt các trường ĐHCL trước những rủi ro pháp lý. Kiểm toán Nhà nước cần xác định việc đánh giá toàn diện cơ chế, chính sách tự chủ của các trường ĐHCL là một trọng tâm kiểm toán, tập trung nguồn lực phát hiện các lỗ hổng cơ chế, để từ đó kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xóa bỏ, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục ĐHCL, đảm bảo sự rõ ràng, tường minh và đồng bộ.
Hai là, chỉ rõ những điểm đạt được và những lỗi, sai sót về tài chính liên quan đến công tác tuyển sinh: Theo quy định của pháp luật, đối tượng của Kiểm toán Nhà nước là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Công tác tuyển sinh được các trường đại học thực hiện theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tuy không là đối tượng của Kiểm toán Nhà nước nhưng có liên quan trực tiếp đến nguồn thu của các cơ sở giáo dục đại học.
Trong quá trình thực hiện kiểm toán tại các trường ĐHCL, kiểm toán viên cần chỉ rõ những kết quả đơn vị đạt được, đồng thời nhấn mạnh những lỗi, sai sót về tài chính có liên quan đến hoạt động tuyển sinh, ví dụ như: thu học phí không đúng quy định, vượt quy định; công tác tổ chức, quản lý, sử dụng nguồn thu học phí sai quy định; trích lập các quỹ từ nguồn thu học phí không phù hợp; miễn, giảm học phí sai đối tượng...
Các lỗi, sai sót cần được phân tích nguyên nhân và gắn với trách nhiệm của những cá nhân, tập thể cụ thể. Trên cơ sở đó, kiểm toán viên nhà nước hình thành ý kiến, kết luận kiểm toán để kiến nghị các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền lành mạnh công tác quản lý tài chính gắn với công tác tuyển sinh của các trường đại học.
Ba là, phát huy chức năng tư vấn của Kiểm toán Nhà nước để giúp các cơ sở giáo dục ĐHCL thực hiện tiến trình tự chủ đạt hiệu quả cao: Nhiều cơ sở giáo dục ĐHCL thực hiện tiến trình tự chủ nhưng không đủ chắc chắn để khẳng định những chính sách đang được cơ sở thực thi đạt hiệu quả như mong muốn.
Với lợi thế trình độ chuyên môn và kinh nghiệm từ việc thực hiện kiểm toán tại nhiều cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn trải rộng cả nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ chủ quản... kiểm toán viên nhà nước cần tăng cường tư vấn để giúp các đơn vị được kiểm toán hiểu rõ và thực hiện đúng cơ chế tự chủ. Sự thành công của các trường đại học nói chung và trong công tác tuyển sinh nói riêng khi thực hiện cơ chế tự chủ sẽ góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Kiểm toán Nhà nước.
Theo tapchitaichinh.vn
GS.TS Lê Vinh Danh: "Sẽ phá sản mục tiêu tự chủ đại học nếu Nghị định làm không tốt" Nhận xét về Dự thảo Nghị định tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học đang lấy ý kiến góp ý để trình Chính phủ, GS.TS Lê Vinh Danh, Hiệu trưởng Trường Đại học Tôn Đức Thắng cho rằng, trong Dự thảo một số quyền của các đại học tự chủ bị tước bỏ; cơ sở giáo dục đại học sẽ...