Tự chủ đại học: Miếng bánh khó nuốt
Đến nay, mức độ tự chủ của các trường đại học vẫn chưa chạm tới những vấn đề cốt lõi có thể quyết định thành bại của nhà trường.
Điều lạ lùng của giáo dục đại học là mặc dù các trường kêu gọi được trao thêm quyền tự chủ và giới lãnh đạo luôn phát biểu ủng hộ việc giao quyền tự chủ, đến nay, mới 14 trường công có đề án tự chủ và được phê duyệt.
Theo đó, các trường sẽ không nhận ngân sách chi thường xuyên từ nhà nước mà sẽ tự hạch toán thu chi. Gần 180 trường công còn lại thì sao? Vì sao họ còn ngần ngại?
Vẫn đắn đo tự chủ
Nhiều ý kiến nêu lên một thực tế tới nay, khi nói tới tự chủ, chúng ta mới chỉ chủ yếu nói tới tài chính. Thực chất, đó là giảm nguồn chi từ ngân sách và để các trường công xoay sở vận hành trong cơ chế thị trường.
Tự chủ tài chính nghĩa là các trường được tự xác định mức thu, không bị giới hạn trong quy định của nhà nước và được tự xây dựng định mức chi.
Việc tự chủ trong hoạt động chuyên môn và bổ nhiệm nhân sự lãnh đạo hầu như vẫn giậm chân tại chỗ.
Nói “hầu như” vì cũng cần ghi nhận một số bước tiến trong việc các trường công hiện nay có thể chủ động hơn so với trước trong việc xây dựng chương trình đào tạo và sử dụng nhân sự trong trường.
Tuy nhiên, mức độ tự chủ của các trường vẫn chưa chạm tới những vấn đề cốt lõi khả dĩ quyết định thành bại của nhà trường.
Sinh viên nộp học phí tại một trường đại học. Ảnh: Tấn Thạnh/Người Lao Động.
Đó có thể là lý do tạo ra sự ngần ngại của một số trường. Nó chẳng khác gì chúng ta trói chân họ lại và bảo: “Chạy đi! Cứ chạy hết tốc lực vào!”, “Nhìn ra ngoài mà xem người ta chạy nhanh như thế nào kia kìa!”.
Tự chủ tài chính theo cách chúng ta đang hiểu là đặt các trường công vào cơ chế thị trường và buộc họ phải cạnh tranh để tồn tại.
Họ phải cạnh tranh với các trường công khác trong hệ thống, với các trường tư, đặc biệt là trường có yếu tố nước ngoài, để giành sinh viên và để tồn tại.
Cạnh tranh là điều tốt cho cả hệ thống vì là động lực kích thích phát triển. Các trường ĐH cũng không ra ngoài quy luật này.
Video đang HOT
Vấn đề là cạnh tranh trên nguyên tắc công bằng sẽ kích thích sự ưu tú, ngược lại nó có thể tạo ra những hiệu ứng tiêu cực mà người làm chính sách cần dự đoán trước.
Cạnh tranh có công bằng?
Vậy hiện nay các trường ĐH có đang cạnh tranh công bằng hay không? Chúng ta xem xét sự công bằng trên cơ sở nào?
Giữa các trường công với nhau, công bằng không có nghĩa các trường được cấp một con số kinh phí như nhau hay định mức giống nhau.
Lý do là vì xét về mặt lý thuyết, trường công thực hiện những nhiệm vụ nhà nước giao cho và kinh phí phải tùy thuộc quy mô, mức độ ưu tiên của nhiệm vụ trong từng giai đoạn.
Ví dụ, giai đoạn trước đây cần có nhiều giáo viên và vì nghề giáo thu nhập không mấy hấp dẫn nên nhà nước cấp bù kinh phí cho các trường sư phạm để sinh viên không phải đóng học phí.
Nhờ chính sách đó, trường sư phạm thu hút được một lượng người học đáng kể, dẫn đến tình trạng hiện nay là khủng hoảng thừa mà nhà nước vẫn chưa kịp thời điều chỉnh.
Tuy vậy, ngoài những ưu tiên, các trường công cần được bình đẳng về cơ chế. Ý tưởng trao quyền tự chủ tùy theo mức độ phát triển của từng trường thật ra chỉ là bình phong cho cơ chế “xin – cho”.
Chúng ta có thể hiểu được e ngại của những người làm quản lý nhà nước về việc mở rộng tự chủ dẫn tới không thể kiểm soát. Tuy vậy, điều này không thể biện minh cho việc trường này được mức độ tự chủ cao hơn trường kia trên cơ sở đánh giá, cho phép của cơ quan thẩm quyền.
Các trường công cần được tự chủ ở mức độ như nhau, nhất là phải thực hiện một trách nhiệm giải trình với một cơ chế giống nhau và ở một mức độ nghiêm ngặt như nhau. Chỉ trên cơ sở đó mới có cạnh tranh công bằng.
Giữa trường công và trường tư hiện nay, sự cạnh tranh không thực sự công bằng.
Trường công cho dù không nhận ngân sách chi thường xuyên vẫn đang được bao cấp cơ sở vật chất và đầu tư xây dựng cơ bản. Vì thế, thu cùng một mức học phí và cung ứng cùng chất lượng dịch vụ so với trường tư, đó là cạnh tranh không công bằng.
Bù lại, trường tư có một ưu thế cực kỳ quan trọng mà các trường công không thể sánh được, là họ có thể lựa chọn (và sa thải) hiệu trưởng.
Mặc dù quyền này bị hạn chế khá nhiều bởi các quy định quản lý Nhà nước, nhìn chung, trường tư có thẩm quyền tương đối lớn trong việc quyết định nhân sự lãnh đạo của trường.
Cả trường công lẫn trường tư hiện nay đều phải cạnh tranh với trường có yếu tố nước ngoài như RMIT, British University Vietnam (BUV), American University in Vietnam (AUV) và sắp tới là Fulbright University Vietnam (FUV).
Các trường này có thế mạnh về kinh nghiệm, thương hiệu, trình độ quản lý, vốn đầu tư, nhân lực và thêm vào đó là tự chủ hầu như hoàn toàn về tất cả các mặt tài chính, chuyên môn và nhân sự lãnh đạo.
Ngay cả các trường tự coi mình là một trường ĐH Việt Nam như AUV hay FUV cũng đang xin “cơ chế đặc biệt”, tức là không hoàn toàn vận hành trong khuôn khổ pháp lý Luật Giáo dục ĐH Việt Nam.
Ưu thế cạnh tranh gần như duy nhất của các trường ĐH Việt Nam là học phí thấp, vì thế đã hình thành những phân khúc thị trường khác nhau cho các loại trường này. Điều này cũng bình thường nếu như các trường trong và ngoài nước được cạnh tranh trên một sân chơi công bằng.
Tất nhiên, hệ thống giáo dục ĐH không thể phát triển bằng cách kéo lùi các trường có yếu tố nước ngoài này lại trong một khuôn khổ giống như các trường trong nước. Trái lại, không có lý do gì các trường trong nước lại không được hưởng mức độ tự chủ mà các trường này đang được hưởng.
Cần tháo gỡ cơ chế trách nhiệm giải trình
Việc tiến tới tự chủ mà không gây rối loạn rất cần có cái phanh “trách nhiệm giải trình” để cân bằng lại. Hai cơ chế chủ yếu để thực hiện trách nhiệm giải trình là hội đồng trường và kiểm định chất lượng.
Việc kiểm định chất lượng đã có nhiều bước tiến rất đáng kể trong những năm qua, nhưng vấn đề hội đồng trường thì vẫn giậm chân tại chỗ cho dù Bộ GD&ĐT đã có công văn thúc giục các trường từ năm ngoái.
Không thể tiến tới tự chủ một cách lành mạnh mà không giải quyết vấn đề hội đồng trường. Vì thế, để thúc đẩy tiến trình này, chúng ta cần có nhiều nghiên cứu hơn về cơ chế hội đồng trường.
Cần tháo gỡ cơ chế trách nhiệm giải trình để có thể đẩy mạnh tự chủ ở các trường, một điểm có thể coi là nút thắt của giáo dục đại học Việt Nam hiện nay.
Theo Phạm Thị Ly / Người lao động
Phó thủ tướng: Đổi mới đại học khó hơn đổi mới doanh nghiệp
"Đổi mới đại học còn khó khăn hơn đổi mới doanh nghiệp bởi liên quan con người nên thời gian tới chúng ta cần có trách nhiệm hơn, quyết tâm cao hơn", Phó thủ tướng Vũ Đức Đam nói.
Ngày 30/9, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam tổ chức hội thảo "Tự chủ đại học - cơ hội và thách thức", với sự tham dự của Phó thủ tướng Vũ Đức Đam, Thứ trưởng GD&ĐT Bùi Văn Ga và khoảng 300 đại biểu từ các trường trên cả nước.
Bỏ nỗi sợ tự chủ
Phát biểu tại hội thảo, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam khẳng định giáo dục Việt Nam cần được đổi mới cân bằng và toàn diện.
Ông nêu hai thực trạng chứng tỏ nền giáo dục "đang có vấn đề". Thứ nhất, số lượng cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ không có việc làm sau khi ra trường cao. Đương nhiên, điều này còn phụ thuộc tình hình kinh tế - xã hội nhưng rõ ràng giáo dục có vấn đề về chất lượng.
"Một nhà kinh tế từng nói với tôi rằng giả sử chúng ta có thật nhiều cử nhân ra cử nhân, kỹ sư ra kỹ sư, thạc sĩ ra thạc sĩ, tiến sĩ ra tiến sĩ, đó cũng là nguồn lực để thu hút đầu tư mạnh mẽ hơn", Phó thủ tướng nói.
Ông cũng đề cập thực trạng đáng buồn trong việc phát triển khoa học công nghệ ở nước ta hiện nay. Phó thủ tướng cho hay, Việt Nam chưa có tạp chí thuộc danh mục ISI và trong khoảng 20 nghìn tạp chí nằm trong cơ sở dữ liệu Scopus, nước ta chỉ có 3 tạp chí (không thuộc các trường đại học).
Hai chỉ số trên cho thấy nền giáo dục cần được đổi mới cân bằng, toàn diện và mạnh mẽ, phù hợp xu thế thế giới. Vì thế, tự chủ đại học là xu thế tất yếu.
Phó thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại hội nghị. Ảnh: TN.
Tự chủ đại học đồng nghĩa việc các trường sẽ tự chủ về chuyên môn, bộ máy tổ chức nhân sự và tài chính. Nhiều trường lo ngại nếu trường tiến hành tự chủ sẽ không được Nhà nước đầu tư.
Phó thủ tướng cho biết tự chủ không có nghĩa Nhà nước ngừng đầu tư cho các trường đại học. Ông nêu trường hợp Học viện Nông nghiệp Việt Nam (một trong 14 trường được trao quyền tự chủ vào năm 2015) vẫn được tham gia xây dựng dự án vay vốn.
ĐH Bách khoa Hà Nội cũng được cấp khoản vốn tương tự, trong khi ĐH Kinh tế Quốc dân tiếp tục nhận hỗ trợ từ ngân sách.
"Chúng ta phải bỏ nỗi sợ là nếu tự chủ sẽ không còn vốn ngân sách. Tôi khẳng định với các đồng chí tự chủ không có nghĩa Nhà nước không tiếp tục đầu tư cho giáo dục đại học. Chỉ có điều, chúng ta phải thay đổi cách đầu tư", ông Đam nhấn mạnh.
Hỗ trợ sinh viên nghèo
Một vấn đề đặt ra là tự chủ đại học khiến nhiều người lo các trường sẽ quy định học phí ở mức cao. Trên thực tế, đây là mối quan tâm hợp lý.
Trong đợt tuyển sinh vừa qua, không ít phụ huynh và thí sinh lo lắng trước tình trạng một số trường tự chủ "quên" công khai học phí trước khi tuyển sinh. Thông tin ngoài lề về số học phí có thể lên đến 13 triệu đồng/năm buộc họ phải suy nghĩ lại về việc ứng tuyển vào trường.
Trước băn khoăn này, Phó thủ tướng cho rằng điều quan trọng là phải nâng chất lượng giáo dục để thu hút người học. Sinh viên nghèo, con em nông dân và gia đình chính sách sẽ được hỗ trợ để tiếp cận giáo dục đại học.
Ông Đam nói thêm các trường nâng học phí cần có các suất học bổng dành cho sinh viên nghèo. Trong khả năng cho phép, Nhà nước xem xét để tiếp tục hỗ trợ về cơ sở vật chất hoặc đầu tư thông qua các chương trình nghiên cứu khoa học.
Ông khẳng định một lần nữa Nhà nước không cắt ngay tiền đầu tư vào các trường mà chỉ giảm dần để tăng cường tính tự chủ và trách nhiệm của nhà trường. Ngoài ra, việc giảm này chỉ trong thời gian ngắn, về lâu dài, Nhà nước vẫn đầu tư cho giáo dục như cách các nước tiên tiến làm.
Theo Zing
Phó thủ tướng: Đại học công lập phải đổi mới cơ chế Theo Phó thủ tướng Vũ Đức Đam, một số trường và các bộ ngành liên quan chưa chủ động, tích cực triển khai các nội dung tự chủ theo nghị quyết cua Chinh phu. Tại hội nghị đánh giá kết quả thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học công lập vừa qua, Phó thủ...