Trường tự chủ chưa có cơ chế đặc thù, đột phá để thu hút được nhân tài
Cán bộ, giảng viên tài năng đang làm việc, cống hiến tại nhà trường phần lớn là do họ tự phấn đấu chứ không phải được phát hiện từ chính sách trọng dụng nhân tài.
Tự chủ đại học là một chủ trương đúng đắn, tạo điều kiện cần thiết để thực hiện quản trị đại học tiên tiến, phù hợp với xu thế phát triển và đã được quy định rõ trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học năm 2018.
Theo đó, các trường đại học được giao quyền tự chủ toàn diện, tự quyết định và có trách nhiệm giải trình về chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản và các hoạt động khác trên cơ sở quy định của pháp luật và năng lực của Nhà trường. Trong đó, tự chủ về chuyên môn, học thuật là nội dung cốt lõi trong trường đại học.
Điều này đòi hỏi trường đại học tự chủ phải có đội ngũ cán bộ, giảng viên có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu của Trường. Nói cách khác, để làm chủ về chuyên môn, học thuật, các trường đại học tự chủ rất cần nhân tài và cần phải có chính sách thu hút nhân tài.
Nhân tài và vai trò của nhân tài trong học thuật
Nhân tài là một khái niệm động, đa chiều và có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Nhân tài được hiểu là người có năng lực và hiệu suất làm việc vượt trội, tạo ra sự khác biệt và hiệu quả rõ rệt để hoàn thành xuất sắc một nhiệm vụ nhất định trong một ngành, một lĩnh vực cụ thể.
Đồng thời, đó là những người có phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần cống hiến và phụng sự, đóng góp tài năng của mình cho sự phát triển xã hội, tổ chức được xã hội, tổ chức thừa nhận, trọng dụng và tôn vinh. Có thể nói, nhân tài là người hội tụ đủ cả năng lực và phẩm chất, vừa có đức, vừa có tài, có giá trị đối với tổ chức.
Phó giáo sư Nguyễn Mai Hương – Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Mở Hà Nội (ảnh: NTCC)
Trong học thuật, nhân tài với năng lực trí tuệ, năng lực thực tiễn, tầm nhìn xuyên suốt, sáng tạo, am hiểu sâu sắc chuyên môn và có uy tín sẽ có nhiều đóng góp về tư tưởng, tầm nhìn, định hướng và các kết quả thực hiện trong một lĩnh vực chuyên sâu, tạo nên những giá trị trong học thuật, đào tạo, nghiên cứu và có những đóng góp về lý luận, thực tiễn cho sự phát của ngành, của lĩnh vực.
Các chính sách thu hút nhân tài ở nước ta
Trọng dụng nhân tài là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. ” Hiền tài là nguyên khí quốc gia” là một tư tưởng lớn, xuyên suốt trong lịch sử xây dựng và phát triển đất nước. Trong những năm qua, chính sách thu hút, sử dụng nhân tài luôn được Đảng, Nhà nước, các Bộ-Ban- Ngành quan tâm và chú trọng bằng việc ban hành nhiều chính sách nhằm thu hút, sử dụng nhân tài vào làm việc trong các cơ quan, tổ chức, trong đó có các cơ sở giáo dục.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 đã quy định nguyên tắc thu hút người tài, cụ thể là: “Nhà nước có chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với người có tài năng. Chính phủ quy định khung chính sách trọng dụng và đãi ngộ đối với người có tài năng trong hoạt động công vụ”.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã nêu rõ quan điểm: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững”.
Chính sách của Nhà nước về phát triển giáo dục đại học được quy định trong Điều 12 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học là ” Thu hút, sử dụng và đãi ngộ thích hợp để nâng cao chất lượng giảng viên, chú trọng phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ, giáo sư đầu ngành trong cơ sở giáo dục đại học”.
Một số khó khăn trong thu hút nhân tài tại các trường đại học tự chủ hiện nay
Chủ trương, định hướng về thu hút nhân tài khá rõ ràng trong các cơ sở giáo dục đại học, tuy nhiên các văn bản, cơ chế, chính sách cán bộ như phát hiện, thu hút, trọng dụng, bảo vệ, tạo động lực đối với trí thức và người có trình độ cao chưa cụ thể, chưa phát huy tốt tiềm năng của đội ngũ.
Video đang HOT
Một thực tiễn trong các trường đại học đó là các cán bộ, giảng viên tài năng đang làm việc, cống hiến tại nhà trường phần lớn là do họ tự phấn đấu, nỗ lực, tự học tập, rèn luyện mà không phải được phát hiện từ cơ chế, chính sách trọng dụng, đãi ngộ thực sự xứng đáng đối với nhân tài.
Trường Đại học Mở Hà Nội động viên, khen thưởng cho cán bộ, giảng viên có đóng góp trong nghiên cứu khoa học (ảnh; NTCC)
Mặc dù tự chủ về tổ chức, nhân sự nhưng các trường đại học phải tuân thủ Luật Viên chức trong tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nên bị ràng buộc bởi các quy định chung, không có cơ chế đặc thù, đột phá để thu hút được nhân tài cho nhà trường.
Bên cạnh đó, một yếu tố quan trọng đó là việc dành nguồn lực tài chính cho chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay ở các trường đại học về cơ bản là khiêm tốn, chưa thực chất. Điều này ảnh hưởng tới việc tạo điều kiện về môi trường làm việc hiện đại và chế độ đãi ngộ đối với nhân tài.
Đổi mới về chính sách thu hút nhân tài trong các trường đại học tự chủ
Trong bối cảnh tự chủ đại học hiện nay, các trường đang rất nỗ lực trong việc nâng cao tiềm lực của cơ sở mình. Đặc biệt, phải kể tới trách nhiệm nâng cao năng lực đội ngũ giỏi với các chính sách phù hợp để thu hút nhân tài.
Trước hết, trường đại học cần xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ, xác định các vị trí trọng yếu với các tiêu chuẩn, tiêu chí cần thiết để thi tuyển, tuyển dụng nhân tài phù hợp với chiến lược phát triển nhà trường và phát triển các ngành đào tạo; chú trọng nhân sự giỏi chuyên môn, học thuật tại các tổ bộ môn, nhóm nghiên cứu mạnh.
Thứ hai, có chính sách đột phá, phù hợp để thu hút, mời gọi các giảng viên, đội ngũ trí thức tài năng thông qua chế độ đãi ngộ xứng đáng cả về vật chất, tinh thần và văn hoá nhà trường. Để làm được điều đó, nhà trường cần dành một nguồn lực tài chính đủ mạnh để đầu tư cho việc đãi ngộ, thu hút và trọng dụng nhân tài một cách thực chất.
Thứ ba, các trường đại học cần có tư duy trọng nhân tài để giữ chân được đội ngũ cán bộ, giảng viên tài năng, có uy tín trong chuyên môn và năng lực sáng tạo để làm chủ được học thuật khi thực hiện tự chủ. Đây là yếu tố rất quan trọng, tác động tới vị thế, thương hiệu và chất lượng đào tạo của nhà trường.
Thực tế, các nhà trường đã rất tích cực tìm kiếm, mời gọi các giảng viên, đội ngũ trí thức tài năng nhưng cần quan tâm để giữ nhân tài thông qua việc trân trọng các thành quả mà các cán bộ, giảng viên tài năng đã tạo dựng, cống hiến và tiếp tục tạo môi trường thuận lợi để các nhân tài sáng tạo và phát triển.
Thứ tư, sử dụng và sắp xếp, bố trí nhân tài hợp lý, hiệu quả. Cần phải thay đổi quan điểm thu hút, trọng dụng nhân tài bằng việc bố trí những người giỏi chuyên môn vào các chức danh lãnh đạo, quản lý để có chế độ đãi ngộ mà quan trọng là bố trí họ làm những công việc phù hợp để phát huy hết năng lực, sở trường của cá nhân họ, để họ có điều kiện để cống hiến và giúp đỡ các đồng nghiệp phát triển.
Đối với những nhân tài phù hợp với vị trí lãnh đạo, tổ chức điều hành thì bồi dưỡng, bổ nhiệm vào các chức vụ trong bộ máy tổ chức của nhà trường; những người có tài về chuyên môn, nghiệp vụ thì bồi dưỡng, trọng dụng họ phát triển con đường giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong các tổ bộ môn, nhóm nghiên cứu mạnh; người giỏi về tay nghề có thể tham gia nhiều công việc cần sự khéo léo, tỉ mỉ…
Điều quan trọng là dù ở vị trí công việc nào, nhân tài cũng được tạo điều kiện môi trường làm việc chuyên nghiệp tốt nhất để phát huy hết năng lực cá nhân, được nhận chế độ đãi ngộ đặc thù, thậm chí là cao hơn cả lãnh đạo.
Thứ năm, nhà trường tôn trọng, tin tưởng, tạo điều kiện làm việc, phân công công việc phù hợp và có chính sách tạo động lực để phát huy tối đa năng lực, sở trường của mỗi thành viên trong trường, trong đơn vị để họ đều thấy giá trị đóng góp của mình trong trong chuyên môn, trong học thuật và trong các hoạt động, vì sự phát triển chung của tổ chức. Có như vậy, nhà trường không chỉ thu hút, tuyển dụng nhân tài mà còn bồi dưỡng, phát triển nhân tài ngay từ nguồn nhân lực tại chỗ.
Thứ sáu, cùng với chính sách chủ động của mỗi trường, các trường Đại học cần được giao quyền tự chủ để xây dựng chiến lược và ban hành các chính sách đột phá trong việc tuyển dụng, thu hút và trọng dụng nhân tài thực sự mà không quá lệ thuộc vào độ tuổi, văn bằng cũng như quy trình tuyển dụng.
Nhân tài là nguồn lực, là vốn quý, đóng vai trò trung tâm thúc đẩy sự tăng trưởng, tạo lợi thế cạnh tranh, quyết định tiềm lực và sức mạnh của nhà trường trong quá trình xây dựng và phát triển bền vững.
Trong bối cảnh tự chủ đại học nói chung và tự chủ học thuật, chuyên môn nói riêng, việc thu hút, tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong các cơ sở giáo dục đại học. Chính sách thu hút nhân tài trong các trường đại học sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và thực hiện trách nhiệm của nhà trường trong việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh mới.
Kỹ năng phát triển môn học, điểm phân biệt giảng viên chuyên nghiệp và nghiệp dư
Chỉ khi có quyền tự chủ trong học thuật các trường đại học mới có thể phát triển các chương trình đào tạo đáp ứng xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Nhà giáo nhân dân - Giáo sư Nguyễn Đức Chính (nguyên Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội) đã chỉ ra những điều kiện cần để cơ sở giáo dục đại học tự chủ một cách thực chất và bền vững bao gồm từ chương trình đào tạo, chuẩn đầu ra...
Tuy nhiên, theo thầy Chính để có thể tự chủ và thực thi hiệu quả các quyền tự chủ các cơ sở giáo dục đại học phải tự hoàn thiện mình. Trước hết là hoàn thiện hệ thống chương trình đào tạo, hoàn thiện hệ thống quản lí, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, kĩ thuật, học liệu...Cụ thể:
Hoàn thiện hệ thống chương trình đào tạo
Để có thể nhận quyền tự chủ và thực thi hiệu quả các lợi thế do tự chủ mang lại thì theo Giáo sư Nguyễn Đức Chính, các cơ sở đại học phải hoàn thiện hệ thống các chương trình đào tạo theo tinh thần Thông tư 17/2021/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chuẩn chương trình đào tạo, xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo các trình độ giáo dục đại học với 8 tiêu chuẩn, 30 tiêu chí và các chỉ báo.
Theo đó, mục tiêu 3 tiêu chí, chuẩn đầu ra 7 tiêu chí, chuẩn đầu vào 4 tiêu chí, khối lượng học tập 3 tiêu chí, cấu trúc chương trình 4 tiêu chí, phương pháp giảng dạy và đánh giá kết quả học tập 3 tiêu chí, đội ngũ giảng viên và nhân lực hỗ trợ 5 tiêu chí, cơ sở vật chất- công nghệ - học liệu 1 tiêu chí.
Nhà giáo nhân dân - Giáo sư Nguyễn Đức Chính (ảnh thầy Chính cung cấp)
"Thông tư 17 không chỉ nêu quan điểm chính xác về chương trình đào tạo, các yếu tố cấu thành chương trình đào tạo, mà còn xác định những điều kiện thực thi chương trình đào tạo, các nội dung đánh giá cải tiến chương trình đào tạo. Các cơ sở giáo dục đại học căn cứ vào Thông tư không những có thể để hoàn thiện các chương trình đào tạo hiện có, mà còn để thiết kế các chương trình đào tạo cho các ngành mới", thầy Chính nhấn mạnh.
Đào tạo, bồi dưỡng, hoàn thiện đội ngũ giảng viên
Theo quan sát của Giáo sư Nguyễn Đức Chính sau hơn 50 năm dạy đại học và sau đại học, còn khá đông giảng viên đang thiếu 1 kĩ năng nghề nghiệp quan trọng: kĩ năng phát triển chương trình môn học. Đây là kĩ năng nghề nghiệp quan trọng để thực thi quyền tự chủ học thuật và cũng là kỹ năng để phân biệt giáo viên chuyên nghiệp với nghiệp dư.
Giảng viên đại học khác với giáo viên phổ thông là có khả năng phát triển chương trình môn học mới, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động luôn thay đổi và đề xuất thay hoặc bổ sung vào chương trình đào tạo. Để làm việc này giảng viên phải nghiên cứu chương trình đào tạo khóa học, mục tiêu, chuẩn đầu ra của chương trình, nghiên cứu yêu cầu mới của thị trường lao động để ít nhất bổ sung, cập nhật các môn học đang có trong chương trình đào tạo. Và cao hơn thiết kế môn học mới để thay thế hoặc bổ sung vào chương trình đào tạo.
Ngoài ra giảng viên phải thiết kế được kế hoạch dạy học môn học một cách cập nhật nhất, phù hợp nhất với sinh viên của từng năm học, lớp học cụ thể (chứ không phải thiết kế 1 lần và dùng cho mãi mãi).
Hoàn thiện hệ thống học liệu và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ đào tạo
Các cơ sở giáo dục đại học phải đảm bảo tối thiểu 1 môn học có hơn 1 giáo trình chính đã xuất bản, nhiều tài liệu tham khảo trong đó qui định số tài liệu tham khảo bắt buộc mà sinh viên có thể tiếp cận được.
Hoàn thiện hệ thống quản lí nhà trường
Trên cơ sở bộ chuẩn chất lượng của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành trong Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT thì các cơ sở giáo dục đại học cần bổ sung 01 hiệu phó chuyên trách tìm kiếm các dự án, các nguồn tài trợ, các cơ hội hợp tác trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng.
Theo Giáo sư Nguyễn Đức Chính, những văn bản pháp quy chính đang được dùng để quản lí chương trình cũng như quá trình đào tạo bậc đại học hiện nay gồm Luật Giáo dục đại học sửa đổi 2018; Quyết định 43/2007/QĐ-BGDĐT quy chế đào tạo theo tín chỉ ban hành 15/8/2007; Thông tư 08/2021/TT- BGDĐT quy chế đào tạo đại học ban hành 18/3/2021; Thông tư 17/2021/TT-BGDĐT và một vài văn bản khác.
Muốn hoàn thiện hệ thống các chương trình đào tạo thì cần một số điều cần điều chỉnh chưa có trong các văn bản trên, bao gồm:
Quy trình nghiên cứu, khảo sát để xác định mục tiêu, chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo.
Quy trình sử dụng mục tiêu, chuẩn đầu ra để lựa chọn, sắp xếp các khối kiến thức trong chương trình.
Số lượng tối đa các học phần (môn học) trong các khối kiến thức (không quá 40).
Số tín chỉ chuẩn cho 1 học phần ( 3 tín chỉ, hoặc bội số của 3 hoặc ước số của 3 cho các học phần tự chọn để dễ lắp ghép).
Tỷ lệ giờ lí thuyết và thực hành, tự nghiên cứu trong 1 học phần.
Các hình thức tổ chức dạy học (lí thuyết, thực hành , tự nghiên cứu) và các hình thức đánh giá tương ứng.
Bắt buộc có giờ xêmina do các trợ giảng hướng dẫn.
Bắt buộc có đội ngũ trợ giảng với nhiệm vụ hướng dẫn xêmina, chấm các bài tập cá nhân/tuần và nhóm/tháng.
Những điều cơ quan quản lí nhà nước cần làm
Theo Giáo sư Nguyễn Đức Chính, để các quyết định quản lí có hiệu lực, hiệu quả thì việc đầu tiên cần làm là hướng dẫn thật cụ thể, chi tiết cách thực hiện các công việc cần làm để đạt các tiêu chí, tiêu chuẩn.
Trong chương trình đào tạo thì mục tiêu, chuẩn đầu ra là yếu tố quan trọng nhất, quyết định chất lượng của cả chương trình đào tạo. Mà "chuẩn đầu ra là yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực của người học sau khi hoàn thành một chương trình đào tạo, gồm cả yêu cầu tối thiểu về kiến thức, kĩ năng, mức độ tự chủ, trách nhiệm của người học sau tốt nghiệp".
Cụ thể, trong Thông tư 17/2021 có 6 yêu cầu cần đạt về chuẩn đầu ra, trong đó yêu cầu 1 là quan trọng nhất rằng: "Phải rõ ràng và thiết thực thể hiện rõ ràng kết quả học tập mà người tốt nghiệp cần đạt được về hiểu biết chung và năng lực cốt lõi ở trình độ đào tạo, những yêu cầu riêng của lĩnh vực, ngành đào tạo".
Nếu chỉ căn cứ vào yêu cầu này thì các cơ sở giáo dục đại học rất khó thực hiện, cần có sự hướng dẫn rất cụ thể, chi tiết qui trình thực hiện từng công việc và hỗ trợ các trường thực hiện để chuẩn đầu ra đạt được yêu cầu này.
Trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học là một quyết định "thuận thiên", là tạo môi trường sống để các cơ sở giáo dục đại học có thể thực hiện được chức năng vốn có của mình là cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, có khả năng cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập.
Vấn đề càng trở nên bức thiết khi trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhiều ngành nghề đang đào tạo sẽ biến mất, nhiều ngành nghề mới xuất hiện, những ngành nghề còn tồn tại nhưng sẽ thay đổi. Và chỉ khi có quyền tự chủ trong học thuật các trường đại học mới có thể phát triển các chương trình đào tạo đáp ứng xu thế này.
Hành lang pháp lý về tự chủ đại học còn "cởi chỗ nọ, trói chỗ kia" Để tự chủ đại học thành công góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục đại học, cần có sự đồng bộ, thống nhất trong các văn bản pháp luật giữa các bộ, ngành. Mặc dù tự chủ đại học đã và đang được bàn thảo trong hơn 10 năm qua, thậm chí đã được luật hóa, song thực tiễn tổ...