Trường đại học không thể từ chối xếp hạng
Chính phủ vừa ban hành Nghị định quy định Tiêu chuẩn phân tầng, khung xếp hạng và tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở giáo dục đại học.
PV đã có cuộc trao đổi với bà Nguyễn Thị Kim Phụng, quyền Vụ trưởng Giáo dục Đại học (Bộ GD&ĐT) về vấn đề còn mới mẻ và khá nhạy cảm đối với giáo dục đại học Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Kim Phụng. Ảnh: Văn Chung.
4 thay đổi so với ban đầu
Phân tầng cơ sở giáo dục đại học để các trường định hướng rõ ràng mục tiêu đào tạo. Xếp hạng để công khai chất lượng và uy tín của các trường để người học và xã hội biết và lựa chọn.
Mục tiêu đào tạo của các trường (thể hiện qua phân tầng) và đẳng cấp của trường (thể hiện qua xếp hạng) sẽ là hành trang quan trọng của sinh viên tốt nghiệp khi tìm kiếm việc làm. Nói cách khác, bằng tốt nghiệp đại học không chỉ ghi nhận trình độ đào tạo mà giá trị của nó còn phụ thuộc vào trường cấp bằng.
- So với dự thảo lần đầu được đưa ra lấy ý kiến vào tháng 10/2014, bản Nghị định lần này đã có những thay đổi gì, thưa bà?
- So với Dự thảo tháng 10/2014 có một số thay đổi.
Thứ nhất, số tiêu chí phân tầng và xếp hạng và các chỉ số, chỉ báo trong mỗi tiêu chí phân tầng và xếp hạng được điều chỉnh phù hợp hơn.
Thứ hai, dự kiến khi triển khai, điểm xếp hạng sẽ chấm theo điều kiện, năng lực của từng trường nhưng khung xếp hạng được điều chỉnh từ 5 hạng xuống còn 3 hạng để đơn giản trong phân hạng
Thứ ba, tổ chức thực hiện phân tầng, xếp hạng được quy định rõ hơn: Chính phủ giao cho Bộ GD&ĐT lựa chọn các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục có năng lực, kinh nghiệm và uy tín để giao nhiệm vụ thực hiện phân tầng và xếp hạng cơ sở GDĐH.
Và điểm khác biệt thứ tư là các điều kiện phân tầng, đặc biệt là các điều kiện về hoạt động khoa học và công nghệ được quy định khái quát hơn, phù hợp với tất cả các nhóm ngành…
- Bà có thể giải thích tại sao dự kiến ban đầu đưa ra sẽ xếp các trường đại học thành 5 hạng, nay rút lại chỉ còn 3 hạng?
- Nếu khung nhiều hạng và khoảng cách giữa các hạng nhỏ sẽ làm cho khung xếp hạng ít có ý nghĩa. Mặt khác, việc xây dựng chính sách đối với khung 5 hạng sẽ phức tạp hơn, khó đảm bảo sự phân biệt rõ giữa các hạng, không tạo điều kiện và động lực cho các cơ sở GDĐH phấn đấu. Vì vậy, BST đã chuyển từ 5 thành 3 hạng.
- Tại sao lại giao cho các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục thực hiện việc phân tầng, xếp hạng? Điều gì sẽ đảm bảo đơn vị này thực hiện khách quan công việc được giao?
- Lý do giao cho các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục thực hiện phân tầng, xếp hạng đó là các tổ chức độc lập, chuyên về đánh giá, kiểm định có kinh nghiệm đánh giá theo tiêu chuẩn, tiêu chí, chỉ số, chỉ báo trong GDĐH.
Tất nhiên không phải tổ chức kiểm định chất lượng nào cũng được giao nhiệm vụ này. Bộ sẽ lựa chọn tổ chức có uy tín, làm việc công tâm, được các trường đại học tín nhiệm để giao nhiệm vụ.
Video đang HOT
Sẽ không có trường “đứng ngoài”
- Xin bà so sánh các tiêu chí để xếp hạng đại học Việt Nam với tiêu chí của một số bảng xếp hạng uy tín trên thế giới?
- Thế giới có nhiều bảng xếp hạng các trường đại học.
Ví dụ, Tạp chí US. News and World Report (USNWR) xếp hạng các trường theo vùng lãnh thổ và nhóm trường, dữ liệu được thu thập đánh giá theo 7 tiêu chí. ĐH Giao thông vận tải Thượng Hải (Trung Quốc) xếp hạng các trường đại học thế giới theo 4 tiêu chí và 6 chỉ số nhấn mạnh vào chất lượng giáo dục, chất lượng giảng viên, kết quả nghiên cứu và quy mô của trường.
Ở Châu Á, tạp chí ASIAWEEK xếp hạng các trường đại học theo 5 tiêu chí như: Danh tiếng hàn lâm của trường, tuyển chọn sinh viên, đội ngũ giảng viên, kết quả nghiên cứu khoa học và nguồn tài chính.
Ngoài ra còn có nhiều tổ chức xếp hạng khác, ví dụ như Webometric xếp hạng dựa và thông tin và lượng truy cập vào trang thông tin điện tử của các trường.
Tiêu chí của các bảng xếp hạng có khác nhau. Những bảng xếp hạng có uy tín được sử dụng rộng rãi thường đặt trọng số rất cao vào kết quả nghiên cứu khoa học của nhà trường, thành tích nghiên cứu khoa học của giảng viên và sinh viên, kể cả cựu sinh viên.
Ban soạn thảo Nghị định đã tham khảo tiêu chí của các bảng xếp hạng khác nhau, cân nhắc, lựa chọn những tiêu chí phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta và các qui định của Luật Giáo dục Đại học.
Hầu hết những tiêu chí chính của các bảng xếp hạng đại học thế giới đều thể hiện trong qui định tiêu chí xếp hạng của nước ta như chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, tỷ lệ sinh viên tìm được việc làm, kiểm định chất lượng, đánh giá của người sử dụng lao động…
Bộ GD&ĐT sẽ quy định cụ thể cách thức đánh giá và trọng số của từng tiêu chí khi tiến hành xếp hạng. Trọng số đối với các tiêu chí xếp hạng của nước ta sẽ khác với các bảng xếp hạng hiện nay ví dụ như trong số về nghiên cứu khoa học nếu đặt quá cao sẽ không hợp lý vì công tác nghiên cứu khoa học ở các trường đại học nước ta còn hạn chế.
- Khi dự thảo mới công bố, đã có ý kiến đóng góp cho rằng việc “Các hạng được tính theo phần trăm (%) số các trường trong từng tầng, được chia theo nhóm từ cao xuống thấp, được làm tròn số” là một quan điểm duy ý chí, giống như trước đây cứ cho rằng mỗi lớp học phải có bao nhiêu học sinh giỏi, bao nhiêu học sinh trung bình”.
Bà có thể lý giải tại sao vẫn duy trì quy định “Khung xếp hạng được xác định theo điểm với cơ cấu như sau: Hạng 1 bao gồm 30% các cơ sở GDĐH có điểm cao nhất; Hạng 3 bao gồm 30% các cơ sở GDĐH có điểm thấp nhất; và Hạng 2 bao gồm 40% các cơ sở GDĐH không thuộc Hạng 1 và Hạng 3″?
- Việc sử dụng Khung 3 hạng ở Việt Nam đi đôi với chính sách của Nhà nước đối với cơ sở GDĐH. Về bản chất, xếp hạng theo Khung 3 hạng (xếp hạng tương đối) vẫn dựa trên xếp hạng tuyệt đối, từ kết quả điểm xếp hạng riêng biệt của tất cả các cơ sở trong tầng để chia thành 3 hạng, để khả thi trong việc xây dựng chính sách đối với từng hạng.
- Có chế tài nào quy định các trường phải tham gia phân tầng, xếp hạng không, thưa bà? Nếu có trường muốn đứng ngoài thì sao?
- Nghị định là văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, theo đó, tất cả các tổ chức, các nhân trong phạm vi áp dụng phải thực hiện. Thông tư Hướng dẫn chi tiết phân tầng và xếp hạng mà Chính phủ giao cho Bộ GD-ĐT xây dựng sẽ tiếp tục quy định cụ thể, để tất cả các trường thực hiện.
Sau này, dự kiến một số chính sách đối với các trường sẽ trên cơ sở phân tầng xếp hạng. Vì vậy, các trường vừa có nghĩa vụ thực hiện các quy định của văn bản pháp luật, vừa có nhu cầu thực hiện để được tham gia các chính sách của Nhà nước.
Ngoài ra, ở phương diện xã hội, khi đã thực hiện phân tầng, xếp hạng mà có một số trường chưa thực hiện ngay thì có thể ảnh hưởng đến uy tín của chính các trường. Bởi vì, chắc chắn các thí sinh, phụ huynh sẽ không đánh giá cao những cơ sở đào tạo không có thông tin về phân tầng xếp hạng hoặc không thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà nước…
Vì vậy, tôi cho rằng khi đã triển khai thực hiện chính sách sẽ không có trường “muốn đứng ngoài”, hoặc việc “muốn đứng ngoài” có thể sẽ bị đánh giá không bằng trường thứ hạng kém vì không minh bạch…
- Khi nào Bộ GD&ĐT sẽ có hướng dẫn cách tính điểm cho mỗi chỉ số của các tiêu chí theo tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở GDĐH? Và tới khi nào sẽ có một “bảng tổng sắp” chính thức đầu tiên về phân tầng, xếp hạng đại học Việt Nam, thưa bà?
- Đây là vấn đề mới, lần đầu tiên được quy định tại Việt Nam nên chưa thể có thông tư hướng dẫn ngay khi Nghị định mới được ban hành, vì các chủ trương mới đưa vào Nghị định phải được xã hội đồng tình và được Chính phủ chính thức ban hành mới trở thành cơ sở để xây dựng thông tư hướng dẫn.
Chúng tôi sẽ cố gắng để có thể có thông tư hướng dẫn sớm nhất trong điều kiện của mình để tổ chức triển khai thực hiện.
Theo Ngân Anh/VietNamNet
GS. Mai Trọng Nhuận: Tự chủ giả hiệu sẽ không có Đại học đích thực
Không có một trường đại học nào có thể hoàn thành sứ mệnh của mình mà không có quyền tự chủ cần thiết.
LTS: Quan điểm của GS. Mai Trọng Nhuận, nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội khi bàn về tự chủ đại học. Trong chủ đề này ông bày tỏ, vấn đề tự chủ đại học nói riêng và giáo dục đại học nói chung còn nhiều điều cần mổ xẻ.
Tuy nhiên, ở tự chủ đại học ông nêu quan điểm rõ ràng là không nên chỉ ra những tồn tại về bản chất mà cố gắng đi tìm những giải pháp thực hiện quyền tự chủ cho tốt hơn, điều đó có ích và thực tế hơn cho các trường đại học.
Bản chất của tự chủ đại học
Khi bàn về tính tự chủ đại học, GS. Mai Trọng Nhuận cho biết, vấn đề sâu sa nhất của tự chủ đại học đó là bản chất của trường đại học đích thực phải tạo ra tri thức mới, và trường đó phải đào tạo ra những con người để đáp ứng những yêu cầu của một xã hội liên tục thay đổi.
Do đó, để quyết định được hai vấn đề này thì mặc định của trường đại học là được tự chủ.
GS. Nhuận lấy một ví dụ của luật chơi trong bóng đá rằng, khi ra sân các cầu thủ (như trường đại học - Pv) muốn đá như thế nào cũng đc, miễn là tuân theo luật chơi chung của thế giới, còn đá bên phải hay bên trái, bóng cao hay thấp thì không ai biết được hướng đi của bóng như thế nào (xã hội luôn thay đổi - pv).
Theo GS. Mai Trọng Nhuận, sứ mệnh thiên chức của trường đại học là làm ra cái mới (mới ở con người và mới tri thức, mặc dù những cái mới đó chưa từng có nhưng không thể hỏi người khác để làm ra nó), các trường phải tự quyết định để làm ra cái mới đó.
GS. Mai Trọng Nhuận, nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh Xuân Trung
Đó là nền tảng cơ bản nhất của một trường đại học, còn nếu một trường đại học không tạo ra cái mới, không đào tạo ra được con người đáp ứng yêu cầu xã hội, trường không có quyền lực gì thì trường đó không còn là bản chất của một trường đại học.
Hơn nữa, theo GS. Nhuân, mấu chốt các trường muốn tạo ra cái mới thì phải có quyền quyết định về đào tạo và nghiên cứu khoa học của trường mình, đó mới đầy đủ nghĩa là một trường đại học. Và đã là đại học thì tất yếu phải được tự chủ.
"Nếu hiểu nôm na nhất thì đại học được quyền quyết định để thực hiện hai sứ mệnh nói trên mà không cần hỏi ai, tất nhiên phải phù hợp với khung bên ngoài là thể chế, chính sách và luật pháp. Còn nếu trường đại học muốn làm ra cái mới, tri thức mới, con người mới mà lại đi hỏi từng người làm như thế nào thì không thể làm được" GS. Nhuận cho hay.
Nội hàm của tự chủ là tự mình quyết định các công việc đào tạo, đáp ứng nhanh chóng với sự thay đổi của xã hội, phù hợp với thể chế, chính sách của quốc gia, địa phương đó.
Và nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội còn cho rằng, khung thể chế càng rộng bao nhiêu thì quyền tự chủ của các trường càng rộng bấy nhiêu và ngược lại.
GS. Mai Trọng Nhuận một lần nữa mượn hình ảnh của môn bóng đá, nếu cầu thủ càng giỏi bao nhiêu thì tận dụng triệt để bấy nhiêu luật chơi mà cầu thủ đá để không phạm luật. Nhưng nếu cầu thủ đó không biết được rằng mình đá cánh phải hay cánh trái, đá nhanh hay chậm thì sẽ "run chân".
Nếu trường đại học phát huy được sở trường, thế mạnh và đúng luật thì gọi là "tự chủ theo năng lực". Ngược lại, với một trường đại học năng lực kém vừa không đào tạo được con người mới, thậm chí lại luôn luôn "phạm luật", có thể là "trốn luật".
"Năng lực của một trường càng tốt thì càng tận dụng tốt quyền tự chủ để làm ra nhiều cái mới đáp ứng nhu cầu xã hội, còn trường năng lực tự chủ kém thậm chí sẽ lạm dụng quyền tự chủ để làm những điều không tốt cho xã hội. Đó là hai xu hướng cùng tồn tại ở lí thuyết chứ không riêng gì ở Việt Nam" GS. Mai Trọng Nhuận nhấn mạnh.
Nhận định thêm, GS. Mai Trọng Nhuận cho biết, không có một trường đại học nào có thể hoàn thành sứ mệnh trên mà không có quyền tự chủ cần thiết, nói đúng hơn thì tự chủ là quyết định sự sống còn của một trường đại học.
Thậm chí, không có tự chủ đích thực thì cũng không có một trường đại học đích thực.
Tự chủ tạo ra nguồn lực
Tầm quan trọng của tự chủ đại học được GS. Mai Trọng Nhuận phân tích thêm, ông cho rằng, tự chủ đại học không những tạo ra cái mới (vì tạo ra đầu vào phù hợp để có đầu ra) mà còn tạo ra nguồn lực.
Muốn đầu ra được chất lượng, đỉnh cao, ngoài đầu vào còn phải luôn luôn được tự chủ để trường đại học được năng động, sáng tạo để có được thêm các nguồn lực cần thiết. Đến đây các trường đại học cũng cần có quyền tự chủ đủ lớn để tạo ra chính sách, cơ chế thu hút nguồn lực (giảng viên, người học, hệ thống cơ sở vật chất, tài chính...).
Cách hiểu mục tiêu của tự chủ là được làm tất cả, đó là cách hiểu sai, đó không phải là mục tiêu mà đó chỉ là giải pháp.
"Mục tiêu của tự chủ là để tạo ra nhanh hơn, nhiều hơn, sản phẩm tốt hơn đáp ứng nhanh, cao hơn yêu cầu phát triển của xã hội không ngừng thay đổi. Tạo ra nguồn lực cần thiết để làm việc đó. Nguồn lực được hiểu không chỉ là tài chính mà còn là thể chế, chính sách, môi trường làm việc..." GS. Nhuận cho hay.
Một nghiên cứu mới đây trên 1.200 cán bộ ở Đại học Quốc gia Hà Nội về "Yếu tố nào quan trọng nhất đến tinh thần trách nhiệm?", bảng hỏi cho 10 đáp án có sẵn, trong đó có đáp án lương, thưởng. Trước khi làm điều tra một số nhà xã hội học nhận định, lương càng cao thì trách nhiệm sẽ đi theo, điều đó là đương nhiên.
Tuy nhiên, kết quả 78% chọn điều kiện số một, đó là "Điều kiện môi trường thực hiện khát vọng nghề nghiệp", tiền chỉ đứng thứ 7. Như vậy, lương đối với giảng viên, cán bộ đại học chỉ đứng thứ 7 trong việc thực hiện trách nhiệm và năng động sáng tạo.
Ví dụ này để thấy được rằng, nguồn lực quan trọng hơn đồng tiền, có tiền chưa chắc đã có được người giỏi về làm việc, đó còn phải là môi trường, thể chế, chính sách để thúc đẩy năng động, sáng tạo. Môi trường đó phải được đánh giá công bằng, khách quan, theo sự cống hiến của từng người.
"Một ví dụ này để thấy tính tự chủ của một trường đại học còn do chính thể chế, chính sách của trường đó để tạo ra nguồn lực, do đó trường được tự chủ, được tự ban hành chế độ trả lương, làm việc, ban hành quy định đánh giá giảng viên. Chứ không nhất thiết phải là 286 tiết giảng cứng nhắc của giảng viên. Nhưng ông hiệu trưởng phải được quyền quyết định để giảng viên được tự do nghiên cứu, sáng tạo..." GS. Nhuận cho biết.
Từ đây, GS. Mai Trọng Nhuận cho rằng, điều kiện tự chủ chính là năng lực tự chủ của chính cơ sở giáo dục đại học đó. Năng lực tự chủ được đo bằng chính năng lực của đội ngũ lãnh đạo, quản lí nhà trường và thứ nữa là đội ngũ giảng viên, cán bộ, nhân viên, phục vụ. Ở mỗi vị trí từng người có tự chủ riêng của họ.
Vấn đề quan trọng hơn nữa để các trường được tự chủ, theo GS. Mai Trọng Nhuận, đó là thể chế, chính sách. Nếu luật chơi đủ rộng để tạo ra sản phẩm tốt nhất, nhanh nhất, nhiều nhất, hiệu quả nhất, nguồn lực thu hút nhiều nhất, đó là mục tiêu của người ban hành thể chế, chính sách.
Do đó, người ban hành phải hiểu tự chủ, tạo tự chủ cho các đơn vị tự chủ. Đảng đảm bảo về đường lối, chủ trương, Quốc hội cho ra luật phù hợp, Chính phủ điều hành tốt. Đó là ba vòng để đảm bảo quyền tự chủ này.
Ở đó phải thấm đẫm tự chủ, ra những chủ trương, chính sách tự chủ đúng. Quốc hội thể chế hóa bằng luật, và cơ quan hành pháp thực hiện luật tự chủ một cách đúng nhất.
GS. Nhuận cho biết thêm, thậm chí trong phạm vi khuôn phép của hành pháp, có thể tạo ra thêm những quy định để tự chủ được tốt hơn nữa, và chính nơi đó thay mặt Đảng và Nhà nước giám sát tự chủ ở các cơ sở giáo dục đại học.
Giám sát ở đây theo quan điểm của GS. Mai Trọng Nhuận là sản phẩm đầu ra chứ không nên theo quy trình. Nhưng đánh giá tự chủ là đánh giá sản phẩm đầu ra của chính cơ sở giáo dục đó, chứ không đi đánh giá quy trình, vì quy trình chỉ là một chiếc "hộp đen" nằm giữa đầu vào và đầu ra...
Trong bài tới, GS. Mai Trọng Nhuận sẽ giải thích rõ hơn về chiếc "hộp đen" của quy trình tự chủ ở mỗi trường đại học. Chiếc "hộp đen" này đối với mỗi cơ sở giáo dục đại học sẽ phải xử lí như thế nào để được xã hội thừa nhận về chất lượng người học?
Theo Giaoducvietnam.vn
học sinh, Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo ,tuyển sinh ,giáo dục ,thầy ,đăng ký, giáo viên, phụ huynh Quyền tự chủ của nhà trường chỉ có thể trao cho Hội đồng trường, không thể trao cho Hiệu trưởng. Phát hành 2 tập cuốn Những điều cần biết về thi quốc gia và tuyển sinh 2015Tự chủ đại học: Giải pháp để Đại học công được tự chủ tài chínhĐại học tự chủ: Giải trình và chịu trách nhiệm với xã hội...