Trường đại học của VN nên tham gia bảng xếp hạng nào ?
Mùa xếp hạng lại đến rồi!”, lời phát biểu, hay đúng hơn là tiếng thở dài, của một nhà nghiên cứu giáo dục nổi tiếng ở nước ngoài cáchđây hơn nửa thập niên về tình trạng “ham hố” trong xếp hạng đại học của một số quốc gia Đông Á, giờ đây có vẻ đã lan đến với VN.”
Sinh viên Trường ĐH Bách khoa (ĐH Quốc gia TP.HCM) – ĐH đứng thứ 144 trong tốp 505 ĐH tốt nhất châu Á năm 2018- 2019 của QS – ẢNH: ĐÀO NGỌC THẠCH
Việc công bố kết quả của một số bảng xếp hạng đại học (ĐH) với sự có mặt của một số trường ĐH VN mới đây, trong đó có nhiều kết quả khá bất ngờ, đã gây ra những phản ứng trái ngược nhau. Một bên là sự ca ngợi, tán thưởng của một số người, còn bên kia là sự nghi ngại, ngờ vực. Nhưng dù phản ứng của mọi người có khác biệt đến đâu thì câu hỏi chung được đặt ra cho tất cả vẫn là: Làm thế nào để biết bảng xếp hạng nào là có giá trị?
Có một điểm cần ghi nhận là mặc dù công chúng có thể có những quan điểm trái ngược nhau về các bảng xếp hạng ĐH nhưng quan điểm của giới chuyên môn lại rất thống nhất. Tựu trung một bảng xếp hạng tốt, nhất thiết phải đạt 2 yêu cầu tối thiểu: Có các tiêu chí phù hợp với sứ mạng và mục tiêu của các trường được xếp hạng; Có phương pháp tốt để thu thập và xử lý các thông tin được sử dụng để xếp hạng.
Với hai yêu cầu nói trên, bảng xếp hạng ĐH nào là phù hợp với các trường ĐH của VN? Điểm qua các bảng xếp hạng đã từng được biết đến tại VN, có thể chọn ra 4 bảng xếp hạng sau đây:
1. Bảng xếp hạng ĐH thế giới (ARWU – Academic Ranking of World University). Bảng xếp hạng rất nổi tiếng này xuất phát từ một nghiên cứu của nhóm nghiên cứu Trường ĐH Giao thông Thượng Hải (Shanghai Jiao Tong University), với các tiêu chí xếp hạng chủ yếu nhắm vào các trường ĐH nghiên cứu và thiên về khối ngành tự nhiên – kỹ thuật.
ARWU được xem là một trong những bảng xếp hạng uy tín nhất trên thế giới, có phương pháp thu thập thông tin và xử lý thông tin minh bạch, khách quan và rất nghiêm ngặt. Trong các chỉ số được sử dụng để xếp hạng, ta thấy có số lượng công bố khoa học trên các tạp chí khoa học hàng đầu như Nature và Science, hoặc số lượng các nhà khoa học đoạt giải Nobel hoặc giải Fields tại các trường.
Với những tiêu chí và chỉ số như trên, bảng xếp hạng này rõ ràng không phù hợp với VN, ít ra là trong giai đoạn hiện nay. Đơn giản là khả năng một quốc gia ở trình độ phát triển của Việt Nam hiện nay mà có được một trường lọt vào danh sách 500 trường đại học nghiên cứu tốt nhất trên thế giới chắc chắn không thực hiện được.
Video đang HOT
2. Bảng xếp hạng ĐH thế giới Webometrics (Webometrics Ranking of World University, gọi tắt là Webometrics). Tương tự ARWU, Webometrics cũng là một sản phẩm nghiên cứu của nhóm Cybermetrics Lab thuộc Hội đồng nghiên cứu quốc gia Tây Ban Nha.
Phương pháp xếp hạng Webometrics được các chuyên gia đánh giá cao về tính minh bạch và khách quan, không có mâu thuẫn lợi ích. Ngoài ra, Webometrics có độ phủ rộng trên toàn thế giới, danh sách xếp hạng lên đến trên 12.000 trường, trong đó có nhiều trường của VN và nhiều nước đang phát triển khác.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Webometrics không nhằm đánh giá toàn diện chất lượng mà nhắm đến độ bao phủ, sức lan tỏa và mức độ tác động của thông tin khoa học của một trường ĐH trên trang web của mình. Mặc dù trong thời đại Internet ngày nay, việc công bố thông tin khoa học thông qua trang web là một chỉ số quan trọng để chứng tỏ năng lực của các trường đại học nhưng không thể xem kết quả xếp hạng Webometrics như một chỉ số chính xác về chất lượng tổng thể của một trường, và càng không thể xem việc tăng hoặc giảm thứ hạng trên Webometrics là chứng cứ của sự gia tăng hoặc giảm sút chất lượng.
3. Hệ thống xếp hạng ĐH khu vực và thế giới của THE ( Times Higher Education). Times Higher Education là một tờ báo chuyên cung cấp thông tin về giáo dục ĐH của Anh quốc. Bảng xếp hạng của THE ra đời vào năm 1971 như một phụ trương của tờ báo. Điều này có thể thấy qua tên gọi ban đầu của hệ thống xếp hạng này là Times Higher Education Supplement (Phụ trương của tờ Times Higher Education, viết tắt là THES).
Qua nhiều năm tồn tại, hiện THE đã trở thành một tổ chức xếp hạng có uy tín với phương pháp minh bạch, rõ ràng, và có độ phủ rộng hơn ARWU rất nhiều. Danh sách các trường hàng đầu thế giới của THE lên đến gần 1.000 so với 500 trường của ARWU. Ngoài ra THE không chỉ so sánh các trường hàng đầu thế giới, mà còn có nhiều bảng xếp hạng được phân loại chi tiết theo khu vực, ngành đào tạo, và thậm chí theo thâm niên của các trường với Bảng xếp hạng các trường dưới 50 tuổi. Các tiêu chí xếp hạng của THE cũng toàn diện hơn, không quá nặng về nghiên cứu như ARWU. Các tiêu chí đánh giá của THE bao gồm 5 nhóm: giảng dạy, nghiên cứu, công bố, mức độ quốc tế hóa và chuyển giao công nghệ.
Với những đặc điểm nêu trên, kết quả xếp hạng của THE đang có rất ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc lựa chọn trường của người học và do đó cũng ảnh hưởng đến các chiến lược phát triển của các trường, đặc biệt là khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Nhiều trường đại học trong khu vực sử dụng kết quả này như một thông tin chính thức về chất lượng của trường.Theo nhận định của một số chuyên gia, nếu được sử dụng một cách cẩn trọng, kết quả xếp hạng đại học nói chung, trong đó có kết quả xếp hạng của THE, có thể có tác dụng tốt trong việc thúc đẩy sự cạnh tranh và phát triển của các trường được xếp hạng.
4. Hệ thống xếp hạng ĐH khu vực và thế giới của QS ( Quacquarelli Symonds). Quacquarelli Symonds là tên một công ty truyền thông giáo dục được thành lập vào cuối thập niên 1980 bởi chính Quacquarelli. Bảng xếp hạng đầu tiên do QS đưa ra vào năm 1996, chỉ nhằm xếp hạng các trường có chương trình MBA tốt nhất thế giới và đưa ra bảng xếp hạng ĐH thế giới đầu tiên vào năm 2003.
QS xếp hạng các trường ĐH dựa phần lớn vào kết quả khảo sát. Một ưu điểm của QS là độ bao phủ rộng và yêu cầu không quá nghiêm ngặt như các bảng xếp hạng có danh tiếng khác khiến khả năng lọt vào bảng xếp hạng của QS không đến nỗi bất khả thi, và việc tăng hạng trên bảng xếp hạng QS cũng dễ dàng hơn. Ví dụ, ngoài tiêu chí về “danh tiếng” chiếm đến 50% tổng điểm, QS có 2 tiêu chí khá dễ dàng cải thiện với tổng tỷ lệ là 20% – tỷ lệ thầy trên trò (15% tổng điểm) và tỷ lệ giảng viên có bằng tiến sĩ (5% tổng điểm). Điều này khiến cho QS có một lượng khách hàng trung thành là các trường ĐH muốn thấy tên mình trong các bảng xếp hạng khu vực và quốc tế, như một hình thức quảng cáo.
Nhưng QS không phải là một bảng xếp hạng được giới hàn lâm đánh giá cao. QS vừa là người xếp hạng lại cũng đồng thời là người cung cấp gói dịch vụ tư vấn xếp hạng, khiến cho tính khách quan của số liệu và kết quả xếp hạng của QS đặt dấu hỏi.
Quan trọng hơn là cải tiến chất lượng
Trong giai đoạn hiện nay, nếu không có những thay đổi mang tính đột phá mà chủ yếu là sự đầu tư mạnh mẽ vào đội ngũ giảng viên và năng lực quản trị của các trường, thì VN vẫn chỉ có khả năng có mặt ở 2 bảng xếp hạng là Webometrics và QS mà thôi. Nhưng ngoài giá trị truyền thông mà các bảng xếp hạng này mang lại, điều quan trọng mà các trường ĐH cần nhớ, đó là: thay vì mê mải chạy theo các thứ hạng để tăng khả năng thu hút người học thì điều quan trọng hơn vẫn là hiểu rõ điểm mạnh – yếu của mình và thực sự cải tiến chất lượng, để một ngày không xa có thể xuất hiện trong những bảng xếp hạng có giá trị hơn. Ví dụ như bảng xếp hạng châu Á của THE, nơi những nước như Thái Lan và Malaysia đã có mặt trong tốp 100 trong vài năm vừa qua, riêng Malaysia thậm chí đã vọt lên chiếm được vị trí tốp 50 ngay trong năm 2018 này.
Theo thanhnien
Nhìn đúng về kiểm định chất lượng
Kiểm định chất lượng (KĐCL) là hoạt động đánh giá toàn diện các mặt của một chương trình đạo tạo (nếu KĐCL chương trình) hoặc các mặt hoạt động của trường đại học (nếu KĐCL cơ sở giáo dục). Đây là công cụ quan trọng để bảo đảm chất lượng giáo dục, trong đó có giáo dục ĐH.
Kiểm định chất lượng phải có tính độc lập để đảm bảo tính khách quan trong đào tạo
Những năm qua, công tác quản lý, cải tiến chất lượng giáo dục được đặc biệt chú ý. Các tổ chức chuyên trách về đánh giá, KĐCL được thành lập. Ngoài Cục Khảo thí và KĐCL được thành lập năm 2008, Phòng Khảo thí và KĐCL đã được thành lập tại Sở GD&ĐT; đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng được thành lập ở các trường ĐH, CĐ trên cả nước.
Từ năm 2007 công tác đánh giá chất lượng tại các cơ sở giáo dục ĐH trên toàn quốc đã được khởi động dựa trên bộ tiêu chuẩn chính thức gồm 10 tiêu chuẩn và 61 tiêu chí. Từ tháng 7/2017, công tác KĐCL được thực hiện theo Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT. Các văn bản này đều được công khai và có trên mạng, chỉ bằng một click chuột, bất cứ ai quan tâm muốn tìm hiểu đều có thể đọc, nghiên cứu.
Có thể còn ý kiến khác nhau về cách xác định tiêu chuẩn, nhưng từ nội dung của Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT có thể khẳng định rằng các tiêu chuẩn đánh giá này bao quát toàn diện mọi hoạt động của trường ĐH: Từ sứ mạng, tầm nhìn, văn hóa, cơ cấu quản trị, chính sách các mặt của trường, quản lý các nguồn lực (con người, cơ sở vật chất và tài chính); đến các hoạt động đảm bảo chất lượng bên trong; việc thực hiện các chức năng của trường ĐH như đào tạo, người học, nghiên cứu, đóng góp phát triển cộng đồng; các kết quả hoạt động về đào tạo, NCKH, phát triển cộng đồng; thậm chí cả kết quả về tài chính, vị trí trong hệ thống giáo dục ĐH.
Tuy nhiên, vẫn có ý kiến nhìn nhận về hoạt động kiểm định ĐH vừa qua là "áp dụng kiểm định chỉ định", hoặc "chỉ kiểm định cơ sở vật chất mà không kiểm định giáo viên; trong khi người dạy, người học mới là yếu tố chính quyết định chất lượng đào tạo".
Bày tỏ sự ngạc nhiên về điều này, GS.TS Nguyễn Quý Thanh - Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục (ĐHQG Hà Nội) - một trong những người nghiên cứu và thực hành về kiểm định tại Việt Nam - cho rằng, dường như người có cách hiểu như trên nhầm giữa "KĐCL giáo dục" với việc "thẩm định các điều kiện đảm bảo chất lượng" - thực chất là xác minh xem số lượng giảng viên và cơ sở vật chất có đúng như trường đã nêu trong đề án tuyển sinh, một hoạt động mà năm ngoái Bộ GD&ĐT có ủy quyền các Trung tâm KĐCL thực hiện.
Đây thực ra là 2 việc khác nhau, phục vụ các mục đích khác nhau, cách thực hiện khác nhau. Các trung tâm KĐCL giáo dục chỉ thực hiện việc thẩm định "điều kiện đảm bảo chất lượng" một lần năm 2017 và phục vụ cho việc tuyển sinh ĐH năm đó, nhưng không liên quan gì đến hoạt động KĐCL giáo dục của trường.
Đến nay, Bộ GD&ĐT đã cấp phép hoạt động cho 5 trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục. Các trường ĐH của Việt Nam được toàn quyền quyết định lựa chọn đơn vị kiểm định hợp pháp, kể cả đăng ký kiểm định với các tổ chức đánh giá, KĐCL giáo dục của nước ngoài, để KĐCL.
Điều này có nghĩa, không có chuyện chỉ định trường phải làm kiểm định ở trung tâm hay bất kì tổ chức nào. Chưa kể, khi đánh giá, các đoàn đánh giá phải nghiên cứu minh chứng, phỏng vấn tất cả các nhóm liên quan, khảo sát, tham quan thực địa, kiểm tra ngẫu nhiên các mặt hoạt động của trường. Tức là, các quá trình đánh giá, kết quả đánh giá dựa trên minh chứng, được kiểm tra chéo lẫn nhau để đảm bảo thông tin xác thực.
Thêm nữa, có một điểm nhiều người chưa biết là các trường ĐH thành viên của các ĐH có trung tâm KĐCL giáo dục không được đăng ký kiểm định tại trung tâm của ĐH đó. Ví dụ, các trường thành viên của ĐHQG Hà Nội không được đăng ký KĐCL tại Trung tâm KĐCL giáo dục - ĐHQG Hà Nội mà phải đăng ký kiểm định của một tổ chức bên ngoài. Việc này để đảm bảo tính khách quan, độc lập.
Việc cần làm trong thời gian tới, theo nhiều chuyên gia, là đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Quỹ kiểm định độc lập, tăng cường các chế tài gắn với kiểm định, thí dụ, gắn mức độ trao quyền tự chủ với kết quả kiểm định; đổi mới chương trình đào tạo đội ngũ kiểm định viên; đào tạo đủ số lượng, cơ cấu và chất lượng các kiểm định viên để triển khai các hoạt động kiểm định cấp độ chương trình. Trong tương lai, cần đẩy mạnh áp dụng một số phương thức quản lý chất lượng giáo dục tiên tiến trên thế giới như mô hình PDCA (Plan-Do-Check-Act), hướng tới nâng cao chứ không chỉ là "đảm bảo" chất lượng.
Tâm An
Theo giaoducthoidai
Kiểm định chất lượng phải có tính độc lập để đảm bảo tính khách quan trong đào tạo
Đại học "lộ" hàng loạt yếu kém nhưng vẫn đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục? Trong giai đoạn từ tháng 1-2016 đến ngày 31/5/2018, 4 Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục Việt Nam đã đánh giá ngoài 122 trường đại học thì có 117 trường đại học/học viện đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục, chỉ có 5 trường đại học/học viện là chưa được công nhận. Chất lượng nhiều trường đại...