Trí tuệ nhân tạo AI khác gì với trí tuệ con người?
Chúng ta đã nghe nhiều về AI – trí tuệ nhân tạo trong thực tế. Thế nhưng không phải ai cũng hiểu hết về khái niệm này. Nhiều người còn cho rằng AI thực chất giống với bộ não của những đứa trẻ nhỏ đang tập làm quen với thế giới xung quanh.
Để giải đáp thắc mắc này, một cuộc tọa đàm có tên “AI và những ứng dụng trong cuộc sống con người” đã được tổ chức với sự tham gia của nhiều chuyên gia Trí tuệ nhân tạo hàng đầu Việt Nam.
Điểm khác biệt cơ bản
Mở đầu buổi tọa đàm là thầy Nguyễn Xuân Hoài, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Viện trưởng Viện Trí tuệ nhân tạo Việt Nam. Thầy cho rằng không dễ để đưa ra một định nghĩa duy nhất về trí tuệ nhân tạo: “Nhưng theo tôi, hiện có thể tạm hiểu một cách đơn giản là có 2 loại AI khác nhau. Loại thứ nhất là AI rộng – một dạng chương trình máy tính có khả năng suy nghĩ, nhận thức như con người. Loại thứ hai là AI hẹp – loại AI mà chúng ta thường thấy trong cuộc sống hàng ngày – đây là loại AI được tạo nên để mô phỏng hoặc bắt chước một số hành vi của con người như lái xe”.
Nếu không dùng đến các khái niệm thuộc về kỹ thuật, anh Hoàng Anh Tuấn, Giám đốc Kỹ thuật Công ty Cổ phần VCCORP lại cho rằng hơi khó để mô tả AI là gì, tuy nhiên có những cái rất dễ để mọi người hiểu được nó. Ví dụ, một số phần mềm chụp ảnh có thể tự động làm cho hình ảnh chụp đẹp hơn, hoặc các thiết bị thông minh smarthome, có thể tự mở cửa. Hoặc một số điện thoại có thể quét 3D để tự mở khóa. Hoặc gần đây là chiếc TV AI có khả năng “nâng cấp” hình ảnh từ bình thường lên 8K của Samsung. Mục tiêu là tạo ra các chương trình, thiết bị, có thể hỗ trợ cho con người tốt hơn, hoặc thay thế cho con người trong một số tác vụ.
Không đồng ý với nhận định AI giống như “não đứa trẻ”, chị Nguyễn Thị Thu Trang, Tiến sĩ giảng viên CNTT trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, sáng lập viên và phụ trách R&D cho startup Vbee nhận định: “Trí tuệ nhân tạo có thể được xem như một loại trí tuệ do máy móc thực hiện, ngược với trí tuệ tự nhiên của con người. Thay vì có khả năng mô phỏng bộ não người, trí tuệ máy móc sẽ xử lý thông tin nhận được giống như cách con người xử lý, và đưa ra các hành vi, ứng xử giống như con người. Não người là một bộ phận rất phức tạp về mặt y học và thậm chí con người cũng chưa hiểu hết, nên khó có thể nói là máy móc có thể mô phỏng bộ não người”.
Anh Bùi An, nhiếp ảnh gia và là Chuyên gia công nghệ trên diễn đàn HD Việt Nam lại cho rằng AI là khả năng nhận biết, xử lý tình huống giống như con người, và có khả năng tiến hóa. Trong những năm gần đây, AI không còn là các ứng dụng xa vời nữa mà đang ứng dụng rất gần gũi trong đời sống con người khi có mặt trong nhiều thiết bị, công nghệ ứng dụng.
Điều mà não người không làm được, AI vẫn có thể hoàn thành
Não người là kỳ quan thế giới, nhưng không phải cái gì nó cũng có thể thực hiện. Ví dụ như mắt người cận không thể nhìn được hình ảnh rõ ràng nhưng AI lại khác, nó thậm chí còn có thể biến hình ảnh mờ nhòe trở nên rõ nét. Ví dụ rõ ràng nhất chính là chiếc TV QLED 8K mới nhất của Samsung. Bằng cách học hỏi và phân tích từ cơ sở dữ liệu hàng triệu hình ảnh khác nhau, chiếc Q900 này có thể áp dụng những bộ lọc giảm nhiễu phù hợp, làm mềm những vết răng cưa để giúp hình ảnh trở nên dễ nhìn hơn, sắc nét hơn, kể cả khi nguồn phát chỉ ở mức 720p.
Video đang HOT
Anh Bùi An là người đã được trải nghiệm khả năng này của chiếc Q900. Anh ấn tượng với khả năng này: “Trước đây khi TV 4K mới xuất hiện, Samsung cũng từng áp dụng công nghệ tương tự để upscale nội dung từ Full HD lên 4K, và giờ đây với TV 8K, công nghệ này càng trở nên quan trọng hơn nữa. TV 8K của Samsung hiện tại đang làm rất tốt điều này khi có thể upscale cả chương trình truyền hình VTV1 VTV3 chuẩn HD 720p, cho hình ảnh đẹp và rõ dù quan sát trong phạm vi 2m”.
Não bộ của chúng ta cũng không thể dựa trên hoàn cảnh mà thay đổi “bộ lọc” âm thanh cho đôi tai được, nhưng chiếc Q900 này thì có. Tùy vào việc bạn đang xem phim hay xem thể thao, chiếc TV sẽ tự động tinh chỉnh, lọc môi trường xung quanh để thay đổi cho phù hợp.
Mặc dù cùng là “trí tuệ”, nhưng như bạn thấy, có nhiều điểm khác biệt giữa AI và “ trí tuệ con người”. Chúng ta cũng có thể hiểu rằng AI đã và đang hỗ trợ con người rất nhiều trong cuộc sống, chứ chưa đến mức phát triển giống và “lật đổ loài người” như trong các bộ phim viễn tưởng vẫn hay lấy ra làm đề tài.
Theo GenK
Làm thế nào để trí tuệ nhân tạo trở thành 'trợ lý' của con người?
Trí tuệ nhân tạo (AI), một công nghệ chỉ mới vài thập niên trước vẫn được coi như khoa học viễn tưởng, nay đã bắt đầu len lỏi vào cuộc sống hàng ngày của con người.
Tác giả bài viết "Trí tuệ nhân tạo tại châu Âu", Christian Scker, cho rằng AI là một công nghệ đề cập đến khả năng học hỏi, nhận thức của hệ thống máy móc (Machine Learning).
Để trí tuệ nhân tạo AI trở thành "trợ lý" của con người. Ảnh minh họa: Reuters
Sau khi được nhập dữ liệu, một hệ thống máy tính có thể cải thiện hiệu suất làm việc bằng cách tận dụng những thông tin này, tương tự như khả năng học tập từ những sự kiện, trải nghiệm và phản hồi của con người.
Người phát ngôn của Trung tâm Nghiên cứu trí tuệ nhân tạo Đức (DFKI), Reinhard Karger, cung cấp một cách hiểu đơn giản hơn, theo đó, AI là sự số hóa các kỹ năng tri thức của chính con người để cung cấp các hỗ trợ hoặc tiện ích cho con người. Đơn cử như việc ứng dụng AI trong nhận diện hình ảnh, đánh máy hay chuyển đổi tự động hội thoại sang văn bản.
Giới chuyên gia cho rằng không phải nói quá khi nhận định thế giới công nghệ hiện nay đang chứng kiến một cơn sốt AI, như lời của Giám đốc điều hành hãng Microsoft, Satya Nadella: AI sẽ là "công nghệ định hình thời đại của chúng ta".
Facebook sử dụng AI để "điều hướng" quảng cáo đến với đúng nhóm đối tượng khách hàng quan tâm, nhận dạng người dùng qua ảnh để hỗ trợ tính năng gắn thẻ. Microsoft và Apple sử dụng AI để vận hành các trợ lý ảo Cortana và Siri. Công cụ tìm kiếm của Google ngay từ đầu đã phụ thuộc vào AI.
Tuy nhiên, đây chỉ là những bước đi nhỏ trong cuộc săn đuổi tham vọng tạo ra những "bộ não" nhân tạo sở hữu sự linh hoạt và năng lực học tập của con người.
Thực tế này cho thấy AI sẽ có vị trí vững chắc trong tương lai công nghệ 4.0. Vấn đề đặt ra, là AI có thể giành mất việc làm của người lao động, hay con người sẽ quá phụ thuộc vào những "bộ não" nhân tạo đến mức đánh mất đi những kỹ năng căn bản của mình? Một tương lai nơi con người và AI có thể cùng hợp tác hiệu quả là vấn đề mấu chốt hiện nay.
Liên minh châu Âu (EU) đã công nhận tầm quan trọng của AI và đang thể hiện vai trò đi đầu trong lĩnh vực này. Dù vậy, châu Âu dường như tụt lại phía sau nhiều nền kinh tế khác trong cuộc đua đầu tư vào AI.
Trong năm 2016, EU đầu tư khoảng 2,4 - 3,2 tỷ euro, con số không mấy đáng kể khi so với các khu vực khác như châu Á (6,5 - 9,7 tỷ euro) hay Bắc Mỹ (12,1 - 18,6 tỷ euro).
Tuy nhiên, EU vẫn là sân chơi quy tụ các trung tâm nghiên cứu AI hàng đầu thế giới và đang phát triển các sáng kiến có tiềm năng phá vỡ những truyền thống của các ngành công nghiệp và nền kinh tế.
Một trong những "át chủ bài" của EU trong lĩnh vực này là DFKI, tổ chức phi lợi nhuận đặt trụ sở tại Đức, có nhiệm vụ phát triển các tính năng, nguyên mẫu và các giải pháp trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông.
Dự án nổi bật của DFKI hiện nay là Delta, ứng dụng AI để phát hiện sớm, phòng ngừa và theo dõi các bệnh về trí nhớ và rối loạn nhận thức dựa trên phân tích hành vi ngôn ngữ. Dự án được kỳ vọng sẽ là giải pháp cho chứng bệnh hiện đang là thách thức lớn nhất của EU trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng, tiêu tốn hơn 800 tỷ euro mỗi năm.
Ngoài ra còn có ứng dụng AI trong ngành thuế, cho phép "giải phóng" con người khỏi những công việc mang tính lặp lại và xử lý lượng lớn dữ liệu, trong khi có thể tận dụng sức người cho những mảng cần nhiều tương tác xã hội, sáng tạo, qua đó giúp giảm chi phí và tăng hiệu suất.
Đương nhiên, đi cùng với sự phát triển của AI còn là những lo ngại về tác động của công nghệ không tưởng này đối với xã hội. Tỷ phú Elon Musk, Chủ tịch Tesla và SpaceX, năm 2017 từng đưa ra cảnh báo về việc robot và AI sẽ cướp đi việc làm của con người, nhất là khi công nghệ cho phép robot sẽ có thể làm tốt hơn con người trong tất cả mọi lĩnh vực.
Tuy nhiên, ông Reinhard Karger cho rằng những sản phẩm công nghệ như vậy hiện nay vẫn là một câu chuyện không tưởng. Những robot mà tỷ phú Elon Musk nói đến, sở hữu trí tuệ nhân tạo có nhận thức ở mức độ con người, còn gọi là "AI mạnh", vẫn chỉ có thể tồn tại trong những bộ phim Hollywood.
Trong khi đó, thị trường hàng chục tỷ euro của thế giới vẫn đang chật vật để phát triển các "AI yếu", tức là những trợ lý kỹ thuật số có thể giúp con người hoàn thành nhanh chóng và hiệu quả hơn những công việc nặng tính kỹ thuật.
Theo một báo cáo mới của MIT Sloan Management Review và Boston Consulting Group, khảo sát hơn 3.000 giám đốc doanh nghiệp, nhà quản lý và nhà phân tích ở 112 quốc gia thuộc 21 ngành, những công ty quan tâm đến AI không có nghĩa họ sẵn sàng đầu tư vào lĩnh vực mới mẻ này.
Cụ thể, có hơn 75% các giám đốc tin rằng AI sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho công ty của họ, song chỉ có 20% công ty đã thực sự triển khai AI vào một số dịch vụ hoặc quy trình.
Ngoài ra, chưa đến một nửa (47%) người trả lời cho biết công ty của họ có kế hoạch thu hẹp lực lượng lao động trong vòng 5 năm tới. Chỉ có 31% số người được khảo sát thực sự lo lắng rằng AI sẽ lấy đi công việc của họ.
Một quan ngại khác khi bàn về AI, đó là nguy cơ phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ. Khi con người số hóa những kỹ năng như ghi nhớ danh bạ, đánh máy, tốc ký, ... và giao những công việc này cho máy móc, liệu điều này có dẫn đến việc con người đánh mất những kỹ năng này hay không.
Tương tự như lo lắng về năng lực chẩn đoán lâm sàng của các bác sĩ khi họ có quá sẵn những thiết bị hiện đại hỗ trợ để chẩn trị.
Giới khoa học tại DFKI cho rằng câu trả lời nằm ở việc cần xác định rõ những công việc mà máy móc có thể làm tốt hơn con người cũng như những phần việc mà sự tham gia của người lao động là không thể thay thế. Tại DFKI nói riêng và nước Đức nói chung, việc phát triển AI không nhằm thay thế con người mà hướng tới tạo ra các công cụ hỗ trợ.
Đơn cử như dự án Delta, AI có thể xử lý dữ liệu nhanh hơn và phát hiện chính xác hơn những dấu hiệu bất thường trong ngôn ngữ của một người, tuy nhiên, máy móc sẽ không hiểu được những nhân tố có thể gây ra những bất thường mà không liên quan đến bệnh tật như say rượu, tâm trạng bất ổn... Và những phân tích này sẽ cần đến sự tham gia của một bác sĩ "bằng xương bằng thịt".
Bên cạnh đó, vấn đề không nằm ở bản thân công nghệ mà là việc con người sử dụng công nghệ. AI, cũng như tất cả các công nghệ hiện đại, không được phát minh ra với mục đích làm xấu đi xã hội, nhưng sẽ khó tránh được những vấn đề nảy sinh trong quá trình sử dụng.
Cũng giống như các mạng xã hội như Facebook, được sinh ra với hy vọng thúc đẩy tương tác giữa người với người, nhưng lại có mặt trái lo ngại về quyền riêng tư và tính bảo mật trong môi trường Internet. Để hạn chế những tác động xấu, điều cần làm là tăng cường kiến thức và hiểu biết, thay vì quay lưng lại với sự đổi mới.
Theo Báo Mới
Tiến sĩ người Việt từ Google về làm Viện trưởng Viện nghiên cứu Trí tuệ nhân tạo Vingroup Ngày 17/4/2019, Tập đoàn Vingroup chính thức công bố thành lập Viện Nghiên cứu Trí tuệ Nhân tạo AI - VinAI Research (trực thuộc Công ty VinTech). Viện Nghiên cứu AI của Vingroup sẽ nghiên cứu những vấn đề khoa học cơ bản trong AI mà cốt lõi là các thuật toán về học máy, học sâu và ứng dụng trong môt loạt...