T.rẻ e.m Việt Nam học nhiều hơn Nhật Bản 300 tiết mỗi năm
Theo TS Vũ Thu Hương, trẻ học nhiều sẽ bị quá tải, đặc biệt khi tâm lý sính thành tích của phụ huynh còn nặng nề.
Chiều 12/4, Bộ GD&ĐT công bố dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể để lấy ý kiến dư luận. Chương trình mới bắt đầu được triển khai từ năm học 2018-2019, dự kiến hoàn thiện vào năm 2022-2023.
TS Vũ Thu Hương (khoa Giáo dục Tiểu học, ĐH Sư phạm Hà Nội) đã có những phân tích góp ý cho dự thảo.
Zing.vn đăng bài viết của TS Vũ Thu Hương với 7 điểm cơ bản.
Thứ nhất, chương trình giáo dục phổ thông tổng thể được xây dựng thống nhất ở mọi miền, mọi tỉnh thành của đất nước. Đây là chương trình bắt buộc đối với học sinh toàn quốc.
Tuy nhiên, với đặc thù đất nước trải dài trên gần 20 vĩ độ, các vùng núi, cao nguyên, đồng bằng, miền biển có nhiều nét địa phương rất riêng, việc xây dựng một chương trình thống nhất chắc chắn sẽ gây ra những nét chênh so với nhu cầu dân cư từng vùng miền.
Ví dụ: Ở khu vực miền núi, vùng cao, học sinh sẽ cần học nghề sản xuất nông nghiệp. Với các môn học như Tin học ứng dụng, Khoa học máy tính, Thiết kế và công nghệ, tính hiệu quả trong giáo dục sẽ không cao.
Vì thế, nên chăng chúng ta cần xây dựng một mô hình giáo dục có các nhánh dành riêng cho những vùng dân cư có nét đặc trưng như khu vực vùng cao, khu vực vùng biển.
Thứ hai, trong mục Yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực, các tác giả đã nêu ra một số năng lực cần có của thanh viên Việt Nam sau khi tiếp nhận chương trình giáo dục mới như năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo…
Như vậy, các mục tiêu sống tốt, sống hạnh phúc và sống thành công đã có thể hoàn thành.
Tuy nhiên, mục tiêu “sống còn” là mục tiêu quan trọng số một thì chưa thấy được đặt ra ở đây dưới dạng năng lực nào. Theo tôi, năng lực tự bảo vệ và chăm sóc bản thân là quan trọng hàng đầu, cần phải bổ sung để đảm bảo sự an toàn và lành mạnh cho các học sinh.
Mục này nên đặt ra thành một mục riêng vì tính chất quan trọng của nó thay vì ghép với năng lực tự chủ. Khi đó, tầm quan trọng của năng lực tự bảo vệ và chăm sóc bản thân sẽ bị coi nhẹ.
Thứ ba, trong mục thời lượng giáo dục, ở cấp tiểu học, các tác giả có ghi rõ: Các trường chưa đủ điều kiên cần tập trung đầu tư để đến năm 2022-2023 dạy học 2 buổi/ngày cho tất cả lớp tiểu học. Trong cấp THCS, các tác giả cũng khuyến khích các trường thực hiện dạy 2 buổi mỗi tuần.
Điều này khiến tôi cảm thấy lo ngại. Rõ ràng t.rẻ e.m Việt Nam chưa được giáo dục giới tính một cách đầy đủ. Thêm nữa, phòng ốc ngủ trưa của các em ở các trường gọi là đủ điều kiện cũng rất tạm bợ, trẻ trai và trẻ gái ngủ chung.
Như vậy, rõ ràng chúng ta đang tạo điều kiện cho những vụ việc xâm hại hoặc s.àm s.ỡ lẫn nhau xảy ra giữa các học sinh. Đặc biệt, khi lứa t.uổi dạy thì càng ngày càng sớm.
Về thời lượng học tập, chúng ta kêu gọi giảm tải cho học sinh nhưng số lượng tiết học ở chương trình vẫn quá cao so với các nước trên thế giới.
Tổng thời lượng chương trình mới ở lớp 1, 2, 3 là 1.147 tiết; ở lớp 4, 5 là 1.184 tiết. Trong khi đó, thời lượng số môn học của Nhật Bản và Phần Lan ít hơn hẳn.
Video đang HOT
Bảng so sánh môn học của trẻ Việt Nam và Nhật Bản.
Bảng so sánh thời lượng số tiết học ở tiểu học của t.rẻ e.m 3 nước Việt Nam, Phần Lan và Nhật Bản.
Với thời lượng nhiều như vậy, liệu rằng trẻ có bị quá tải, đặc biệt khi tâm lý sính thành tích của phụ huynh vẫn còn rất nặng nề và tình trạng dạy thêm học thêm, học nâng cao vẫn phổ biến khắp cả nước?
Thứ tư, mục tiêu của chương trình nhấn mạnh việc hình thành và phát triển hài hòa thể chất và tinh thần, có phẩm chất tốt đẹp.
Tuy nhiên, thời lượng môn học Giáo dục lối sống, Giáo dục công dân ở cấp tiểu học và THCS ít hơn hẳn so với các môn học khác. Ở cấp THPT, môn Pháp luật là bộ môn rất quan trọng thì được đặt chung với môn Kinh tế.
Điều đó sẽ khiến chúng ta nhầm tưởng rằng đây là môn học giáo dục nghề nghiệp hơn là bộ môn đào tạo con người sống và làm việc theo pháp luật.
Thứ năm, về mục tiêu môn Âm nhạc ở bậc tiểu học và các bậc học khác, việc học hát được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, rõ ràng hát là khả năng mà không phải học sinh nào cũng có. Nên chăng mục tiêu này cần được đặt xuống dưới hoặc thay đổi cho phù hợp.
Trong khi đó, những nội dung về lịch sử âm nhạc thế giới, các dòng nhạc trong nước và quốc tế… chiếm thời lượng khá nhiều và rất cần thiết để nâng cao năng lực cảm thụ nghệ thuật của trẻ thì được tóm gọn trong mục tiêu thường thức âm nhạc.
Rõ ràng với cách sắp xếp như vậy, các thày cô giáo sẽ nghĩ đơn giản môn học này dạy trẻ hát là chính.
Thứ sáu, hiện nay thế giới đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức do biến đổi khí hậu và các thảm họa môi trường. Tuy nhiên, chương trình không có bộ môn riêng biệt về các nội dung này.
Các kiến thức quan trọng về môi trường và phát triển bền vững chỉ được đề cập đến trong các môn cuộc sống quanh ta, tìm hiểu tự nhiên, tìm hiểu xã hội ở cấp tiểu học, khoa học tự nhiên và khoa học xã hội ở THCS.
Với thời lượng ít ỏi, rõ ràng chúng ta không thể kỳ vọng là nội dung này sẽ được dạy đầy đủ cho học sinh.
Thứ bảy, ở cấp THPT, các môn nghề đã xuất hiện trong chương trình. Tuy nhiên, các môn giáo dục nghề lại tập trung vào tin học, máy tính, công nghệ.
Trong khi đó, Việt Nam là nước nông nghiệp với các ngành nghề nông, lâm, ngư nghiệp có rất nhiều tiềm năng phát triển.
Rõ ràng với những môn thiên về máy tính, hiệu quả sử dụng kiến thức các môn học này cho nghề nghiệp tương lai của một bộ phận lớn thanh niên sau này không cao.
Vô hình chung, chúng ta đã khiến cho giới trẻ cảm thấy nghề nghiệp quan trọng bậc nhất liên quan đến các thiết bị công nghệ.
Theo Zing
Chương trình giáo dục phổ thông mới tụt hậu so với thế giới
Theo ông Nguyễn Tuấn Hải, dự thảo chương trình giáo dục phổ thông mới chưa cởi mở, thực chất chỉ là sửa đổi vài chỗ chứ không phải thực sự đổi mới.
Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông quốc gia mới được công bố được kỳ vọng sẽ giúp nền giáo dục nước nhà bắt kịp xu thế quốc tế. Tuy nhiên, bản dự thảo mới được Bộ GD&ĐT công bố để xin ý kiến góp ý liệu có đạt được kỳ vọng trên?
Ông Nguyễn Tuấn Hải - nhà sáng lập Eton Grammar School - chia sẻ góc nhìn về vấn đề này. Bài viết thể hiện quan điểm và văn phong của tác giả.
Thiếu triết lý giáo dục quốc gia
Phần đầu của bản dự thảo đi vào "quan điểm xây dựng chương trình" mà không đề cập triết lý giáo dục - được coi là điều cốt yếu trong việc dạy và rèn người.
Thiếu vắng điều này, những diễn giải sau đó về năng lực và phẩm chất của học sinh mà nền giáo dục Việt Nam muốn hướng tới trang bị cho các em bỗng trở nên rối rắm và vụn vặt. Vì thế, bản dự thảo không cho thấy được hướng đi nhất quán, chi tiết và mạnh mẽ, thậm chí mang tính cách mạng trong thời đại công nghiệp 4.0 (dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, tự động hóa) và xu thế giáo dục trên thế giới là liên môn.
Thiếu vắng triết lý, dự thảo không cho thấy được đặc điểm mang tính dân tộc của giáo dục trong việc định hướng phát triển.
Tôi mạnh dạn nêu ra triết lý giáo dục Việt Nam nên tham khảo: Nhân văn, khai phóng và tự cường. Tức là, học để trở nên nhân ái, tự do và mạnh mẽ, giàu có.
Ông Nguyễn Tuấn Hải cho rằng triết lý giáo dục Việt Nam nên tham khảo nhân văn, khai phóng và tự cường.
Thiếu tầm nhìn
Một bản đề cương giáo dục quốc gia không chỉ giải quyết các vấn đề thực tại nhất hiện nay, mà còn phải có vai trò và giá trị định hướng trong 20-30 năm nữa.
Sách giáo khoa cũng gần như vậy. Sách đi trước thời đại khoảng 15-20 năm thì đề cương giáo dục phải đi trước tối thiểu 20 năm và nếu tốt là 30 năm.
Các nhà làm chính sách của Bộ GD&ĐT liệt kê ra những thứ hiển nhiên cần phải làm mà không nêu những điều sẽ cần có để chuẩn bị cho tương lai.
Chúng ta không thấy bóng dáng của STEM (viết tắt của các từ Science - khoa học, Technology - công nghệ, Engineering - kỹ thuật và Math - toán học). Chương trình không thấy bóng dáng của tư duy máy tính, liên môn, song ngữ, kinh tế học và kinh doanh cho THPT...
Sau 10 năm nữa, nền giáo dục phổ thông và sau đó là đại học trong mối liên hệ với nó ra sao, rất khó để hình dung?
Sửa đổi chứ không cách tân
Dự thảo chưa cởi mở và thực chất chỉ là sửa đổi vài chỗ chứ không phải sự đổi mới, cách tân thật sự. Chúng ta đã không dám đ.ập bỏ cái cũ lạc hậu để xây dựng cái mới hoàn toàn, vừa phù hợp vừa mới mẻ để tạo xu thế và động lực phát triển cho cả xã hội.
Chúng ta đều biết học sinh mặc đồng phục về kiến thức và bị áp đặt suy nghĩ rất nặng nề. Các em chỉ có khả năng bắt chước mà ít suy nghĩ. Những người xây dựng dự thảo hiểu điều đó và đưa vào các vấn đề ngõ hầu nhằm cải thiện tình hình chứ chưa dám thay đổi.
Tôi lấy ví dụ về định nghĩa "Hoạt động trải nghiệm sáng tạo" trong nội dung số một. Dự thảo nêu ra 5 lĩnh vực, qua đó học sinh được trải nghiệm và trở nên sáng tạo: Phát triển cá nhân; Cuộc sống gia đình; Đời sống nhà trường; Quê hương, đất nước và cộng đồng xã hội; Nghề nghiệp và phẩm chất người lao động.
Tôi cho rằng không thể có trải nghiệm sáng tạo trong những lĩnh vực quá chung chung, rộng lớn như thế này. Trong vấn đề đổi mới, tôi quan tâm nhất về chương trình và cách dạy học. Điều này thể hiện ở vấn đề trao quyền tự chủ cho nhà trường và giáo viên.
Thứ nhất, nhà trường được quyền lựa chọn các bộ sách giáo khoa riêng cho mình, nhưng trên thực tế, Bộ GD&ĐT không cởi bỏ cơ chế độc quyền và viết sách giáo khoa. Việc khảo thí vẫn do một tay tự quyết và phán xử. Tự chủ về quản lý giáo dục và tự do về học thuật rất cần phải đi liền với nhau.
Thứ hai, giáo viên không được trao quyền quyết định dạy bài nào, bỏ bài nào, dạy đến đâu và dạy như thế nào cho phù hợp năng lực tiếp thu và thế mạnh hay năng khiếu riêng của học sinh.
Thứ ba, môn tự chọn chỉ là Ngoại ngữ 2 và Tiếng dân tộc thiểu số.
Dự thảo cho thấy còn quá tham về kiến thức. Một nền giáo dục tốt không phải trang bị hay nhồi kiến thức mà là cung cấp các công cụ và không gian mở cho học sinh nghĩ. Học sinh vẫn còn phải học quá nhiều môn, khối lượng nặng nề do gắn với chế độ đ.ánh giá năng lực dựa trên điểm số của hệ thống giáo dục của ta.
Thực chất, môn phụ được gọi với tên gọi mỹ miều là "bắt buộc có phân hóa".
Không có tư duy và kỹ năng của thế kỷ 21
Bản dự thảo liệt kê các đầu mục học sinh cần biết làm dài dằng dặc khiến cha mẹ, thầy cô rối trí không biết bắt đầu từ đâu và tại sao phải làm thế.
Nhóm 4 kỹ năng của thế kỷ 21 được công nhận rộng rãi trên toàn cầu là: Kỹ năng ICT, trong đó tư duy máy tính quan trọng hàng đầu.
Kỹ năng suy nghĩ tư duy: Sáng tạo, phản biện, giải quyết vấn đề và tự học tự nghiên cứu.
Kỹ năng làm việc: Giao tiếp (trình bày, hùng biện, tranh biện và phản biện) làm việc nhóm, phối hợp và đặc biệt là lãnh đạo.
Kỹ năng sống thích nghi trong môi trường toàn cầu: Ý thức của công dân toàn cầu về các vấn đề thời đại, trách nhiệm cá nhân và tôn trọng đa dạng văn hóa trong đó có tôn giáo.
Tuy nhiên, điểm thiếu vắng cho bậc tiểu học là rèn luyện thái độ sống tích cực và ứng xử văn minh đã không được trình bày một cách rõ nét.
Phần năng lực cần bổ sung tư duy phản biện, phần kỹ năng là thái độ sống. Điều này có tính thiết thực hơn cho người Việt Nam và coi đó là nền tảng dẫn dắt đến những điều khác.
Bản dự thảo chương trình phổ thông tổng thể mới thực chất vẫn là những điều đã cũ được thay thế bằng những mỹ từ mới. Nếu chúng ta không dám đoạn tuyệt và đ.ập bỏ để xây cái mới thì còn tụt hậu và lạc hậu so với thế giới.
* Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả.
Theo Zing
Sẽ bỏ thi tốt nghiệp THPT quốc gia sau năm 2022? GS Nguyễn Minh Thuyết cho biết sau khi đổi mới xong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (dự kiến năm 2022-2023), sẽ xét tốt nghiệp thay vì thi như hiện tại. Chiều 12/4, Bộ GD&ĐT công bố dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. GS Nguyễn Minh Thuyết, tổng chủ biên chương trình giáo dục phổ thông mới,...