Tranh cãi viết i hay y diễn ra trong nhiều thập kỷ
Theo TS Trịnh Thu Tuyết, cách viết i hay y ngoài sự thuận lợi, còn phụ thuộc vào yếu tố văn hóa, thẩm mỹ.
ảnh minh họa
Dự thảo quy định mới về chính tả đang thu hút sự quan tâm của dư luận. Theo GS Nguyễn Minh Thuyết – Tổng chủ biên chương trình SGK mới – quy định về viết chữ “i” hay “y” sau các phụ âm h, k, l, m, s, t trong những âm tiết không có phụ âm cuối, dự thảo mới vẫn theo quy định đã có từ năm 1980 của Bộ GD&ĐT, tránh làm xáo trộn thói quen đã hình thành sau gần 40 năm áp dụng.
Ví dụ: Viết là “bác sĩ”, không viết “bác sỹ”; viết “tỉ lệ”, chứ không viết “tỷ lệ”…
Tuy nhiên, từ quy định năm 1980 đến nay, cách viết chữ i hay y có nhiều ý kiến khác nhau.
Báo có cuộc trò chuyện cùng TS Trịnh Thu Tuyết – nguyên giáo viên Ngữ văn, trường THPT Chu Văn An, Hà Nội – về dự thảo mới cùng cách viết chữ “i” và “y”.
- Dự thảo chuẩn chính tả mới vừa được trong thời gian qua, bà có đồng tình với những quan điểm trong dự thảo hay không?
- Việc thay đổi nào cũng mong hướng tới sự hợp lý, thống nhất hơn, tuy nhiên thế nào là hợp lý thì cần suy xét trong rất nhiều tiêu chí, từ tính khoa học của ngữ âm học tới tâm lý và văn hoá cộng đồng.
- Xã hội hiện vẫn có những quan điểm khác nhau trong cách sử dụng “i” hay “y”. Theo bà, cách viết của hai từ này như thế nào là đúng?
- Cách viết “i” hoặc “y” khi âm /i/ đứng làm âm chính trong âm tiết mở (không có âm cuối vần) sau các phụ âm /h, k, l, m, s, t/ đã được quan tâm từ nhiều năm nay với những quan niệm trái chiều, xuất phát từ hai tiêu chí chính.
Nếu nghiêng về góc độ ngữ âm học, người ta cho rằng cả hai chữ “i” và “y” trong các trường hợp trên đều ghi âm /i/, bản chất không có gì khác nhau nên nhập hai cách viết đó làm một.
Tuy nhiên, nếu nghiêng về tâm thế văn hoá, nhiều người lại cho rằng nên tôn trọng những quy ước đã trở thành quy chuẩn cho chính tả phổ thông, đề nghị duy trì sự phân biệt “i” và “y”.
Trước đó, chúng ta có một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục ban hành ngày 30/11/1980 (gọi tắt là Quy định 1980), do Thứ trưởng Bộ Giáo dục Võ Thuần Nho và Phó chủ nhiệm UBKHXH Phạm Huy Thông ký.
Video đang HOT
Văn bản này (không ghi số) quy định như sau: “Riêng trường hợp các âm tiết có nguyên âm “i” ở cuối thì viết thống nhất bằng “i”, trừ uy, như duy, tuy, quy,…; thí dụ: Kì dị, lí trí, mĩ vị.
Chú ý: “i” hoặc “y” đứng một mình hoặc đứng đầu âm tiết vẫn viết theo thói quen cũ, thí dụ: ý nghĩa, y tế, ỉ eo, im, yêu”..
Sau quy định từ năm 1980, đến giờ vẫn tồn tại cách viết khác nhau giữa “i” và “y”. Hiện tại, dự thảo về chuẩn chính tả trong chương trình giáo dục phổ thông mới trở lại với quy định năm 1980 này.
Tôi nghĩ rằng ngoài sự thuận lợi, ngôn ngữ còn có tính văn hoá, thẩm mỹ. Trải qua thời gian, mỗi từ ngữ tiếng Việt khi viết đều đã tạo ra những ấn tượng thị giác quen thuộc, từ đó có tính thẩm mỹ và sự phân biệt khá tinh tế trong sắc thái biểu cảm (người ta có thể cảm thấy viết “công ty” trang trọng hơn “công ti” chẳng hạn…).
Vì thế, cần có quy định hướng tới quy chuẩn, nhưng không phải chỉ nhằm mục đích thống nhất cách viết cho giản đơn, giảm thiểu sự lộn xộn trong chính tả phổ thông mà vẫn nên tôn trọng tâm thế của văn hoá truyền thống. Đó là sự phân biệt tương đối ranh giới viết “i” với các từ thuần Việt (lí nhí, kì kèo, bì bõm, ti tiện…) và viết “y” với các từ Hán Việt hy vọng, ký kết, công ty, mỹ phẩm…).
- Những quy định về việc viết tên riêng Việt Nam và tên riêng nước ngoài trong dự thảo có gây khó khăn cho học sinh khi đọc?
- Quy định này sẽ giúp tạo sự thống nhất cho chính tả và cả chính âm tiếng Việt; cũng không gây khó khăn cho học sinh ngày này khi các em được trang bị kiến tức ngoại ngữ từ cấp tiểu học.
- Vị trí đặt dấu thanh được quy định đặt vào âm chính. Ví dụ từ hoà (trong tiếng “hoà”, dấu thanh đặt trên âm chính “a” vì “o” chỉ là âm đệm). Tuy nhiên, hiện tại, thói quen vẫn viết là hòa (dấu thanh thường đặt ở giữa). Điều này có gây khó khăn cho người viết khi phải tư duy về âm chính, âm phụ không?
- Quy định đặt dấu thanh trên âm chính là hợp lý, tạo sự thống nhất và tính thẩm mỹ cho chính tả tiếng Việt.
Kiến thức vê ngữ âm, sự nhận diện âm chính, âm đệm, âm cuối vần…, các em đã được học từ nhỏ, và nó cũng hình thành ngay trong ấn tượng thị giác. Vì thế, việc thực hiện quy định đặt dấu thanh sẽ không làm khó cho các em.
Theo Zing
6 tác phẩm bắt buộc môn Ngữ văn: Thiếu tình yêu, cuộc sống bình dị
Theo TS Trịnh Thu Tuyết, với 6 tác phẩm bắt buộc, học sinh tìm đâu ra đời thường bình dị, nhọc nhằn, đa diện của cuộc sống và hình ảnh con người với cả vẻ đẹp và nỗi đau?
ảnh minh họa
Ngày 12/1, GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên chương trình giáo dục phổ thông mới, thông tin dự thảo chương trình môn Ngữ văn mới sẽ đưa ra 6 tác phẩm bắt buộc.
Đó là bài thơ Thần, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, Truyện Kiều, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc và Tuyên ngôn độc lập. Các tác phẩm văn học khác được đưa vào phụ lục.
Trên cơ sở này, các nhóm tác giả viết sách giáo khoa có thể chủ động lựa chọn những tác phẩm khác nhau để đưa vào sách giáo khoa. Nhìn chung, các bộ sách phải hướng đến việc thông qua ngữ liệu để phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh.
Ngay sau khi thông tin này được công bố, nhiều ý kiến bình luận trao đổi trên các diễn đàn về văn học.
Tranh luận 'Chí Phèo' không là tác phẩm bắt buộc
Chủ đề: "Tại sao Chí Phèo không là tác phẩm bắt buộc của chương trình mới?" thu hút hàng trăm bình luận trên một diễn đàn văn học.
Người có tài khoản Nguyễn Ngọc Ánh nêu quan điểm chương trình này còn thiếu những tác phẩm kinh điển của văn học Việt. Khi bị bỏ đi, học sinh không có cơ hội hiểu sâu sắc những tác phẩm này.
Nhiều ý kiến băn khoăn về dự thảo chương trình môn Ngữ văn. Ảnh minh họa: Lê Hiếu.
Bạn Trương Ngọc Minh Thư viết cô lười học Ngữ văn, nhưng riêng với tác phẩm Chí Phèo, nữ sinh lắng nghe giáo viên giảng, đọc đi đọc lại mọi khía cạnh của bài.
"Không phải vì tác phẩm Chí Phèo hay mà vì thật từng câu chữ, lối hành văn, khiến con người day dứt và tiếc thương cho một nhân vật, lên án thẳng thắn xã hội phong kiến... Văn học là cách vẽ nên cuộc đời một cách chân thực nhất. Một tác phẩm 'rất đời' bị bỏ đi, buồn thật sự vì Chí Phèokhông còn là tác phẩm bắt buộc", nữ sinh viết.
Trước đó, trong cuộc tranh luận về khỏi chương trình sách giáo khoa phổ thông của nghiên cứu sinh Nguyễn Hiền, TS Văn học Trịnh Thu Tuyết - nguyên giáo viên trường THPT Chu Văn An, Hà Nội, cho rằng truyện ngắn này xứng đáng tồn tại bên cạnh bất kỳ tác phẩm nào trong các giai đoạn trước và sau nó.
Ngoài Chí Phèo, nhiều học sinh khác cũng bày tỏ sự tiếc nuối với hàng loạt tác phẩm khi không còn xuất hiện bắt buộc trong chương trình như: Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)...
Thầy Nguyễn Thành Nam - giáo viên Ngữ văn tại Hà Nội - bày tỏ sự băn khoăn: Đa phần tác phẩm bắt buộc đều thuộc văn học trung đại, thiếu giai đoạn văn học trước năm 1975, phong trào thơ mới. Trong khi đó, chính những tác phẩm này mới thực sự gần gũi với các em.
"Nếu nhìn vào toàn bộ tác phẩm là thơ chữ Hán và văn học trung đại sẽ tạo mệt mỏi cho học sinh. Trong khi đó, tình yêu nước chính là yêu những con người, những điều gần gũi. Vậy cớ sao phải học bắt buộc những tác phẩm giữ nước, đấu tranh giành độc lập mà quên mất những trang văn đời thường, tình yêu, cuộc sống?", thầy Nam đặt câu hỏi.
Chưa cân đối
Theo TS Trịnh Thu Tuyết, chương trình Ngữ văn mới xây dựng theo hướng mở, không quy định chi tiết về nội dung dạy học và các văn bản cụ thể, mà chú trọng những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp...
Các nhóm tác giả viết sách giáo khoa có thể chủ động lựa chọn tác phẩm khác nhau. Nhìn chung, các bộ sách đều phải hướng đến việc thông qua ngữ liệu để phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh.
Đó là hướng đi mới, khắc phục được tình trạng học vẹt, học theo văn mẫu, chú trọng phát triển kỹ năng đọc, viết, nói và nghe, đọc hiểu, tạo lập, thực hành, vận dụng văn bản.
Một điểm khiến dư luận quan tâm là trên cơ sở định hướng ấy, chương trình môn Ngữ văn mới sẽ đưa ra 6 tác phẩm bắt buộc. Đó là bài thơ Thần, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, Truyện Kiều, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc và Tuyên ngôn độc lập.
TS Trịnh Thu Tuyết cho rằng nói hẹp thì "văn là người", nói rộng hơn chương trình ngữ văn một quốc gia thường phản ánh khá chính xác gương mặt tinh thần, chiều sâu và đẳng cấp văn hoá của quốc gia đó.
Quan sát 6 tác phẩm bắt buộc trong dự thảo chương trình Ngữ văn mới, có thể thấy nội dung tư tưởng, cảm hứng chủ đạo, đặc trưng thể loại chưa thật cân đối.
Trong số 6 tác phẩm bắt buộc, ngoại trừ Truyện Kiều, 5 tác phẩm còn lại đều phản ánh tinh thần quật cường, bất khuất, ý chí độc lập tự chủ của dân tộc Việt trong và sau những cuộc chiến tranh vệ quốc.
Theo nữ giáo viên, đọc chương trình, thấy tự hào về truyền thống nghìn năm bất khuất, mà vẫn không khỏi băn khoăn: Cả 5 tác phẩm đều mang cảm hứng sử thi, hướng về vận mệnh cộng đồng, ca ngợi những phẩm chất cộng đồng, phản ánh những nỗi đau và vẻ đẹp cộng đồng...
Vậy, học sinh tìm đâu cái đời thường bình dị, nhọc nhằn, đa đoan, đa diện của cuộc sống nhân sinh thế sự? Tìm đâu con người cá nhân với cả vẻ đẹp, góc tối khuất và những nỗi đau?
Không chỉ nội dung cảm hứng, thể loại cũng là vấn đề cần suy nghĩ khi 6 tác phẩm tập trung hai thể: Thơ và văn chính luận. Yếu tố thời đại cũng đặt ra khi ngoại trừ Tuyên ngôn độc lập năm 1945, tất cả đều thuộc văn học trung đại.
"Đành rằng còn rất nhiều tác phẩm đưa vào chương trình tự chọn, tuy nhiên có nên chăng phác họa gương mặt tinh thần của dân tộc đầy đặn hơn ngay trong những nét khái lược nhất của các tác phẩm bắt buộc?", TS Tuyết đặt câu hỏi.
Theo Zing
Cấp bách chuẩn hóa chính tả tiếng Việt Quy định chính tả trong chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới đang được Bộ GD-ĐT xây dựng nhằm thống nhất cách viết chính tả, tránh tình trạng mỗi nơi viết một kiể Hiện nay chưa thống nhất chuẩn chính tả trong sách giáo khoa Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, Tổng Chủ biên chương trình, sách giáo khoa (SGK) mới,...