Trăn trở của Chủ tịch HĐGS ngành Tâm lý học khi năm 2022 có duy nhất 1 ứng viên
Giáo sư Vũ Dũng cho biết, ngành Tâm lý học, số lượng ứng viên ngày càng giảm, năm nay chỉ có duy nhất một ứng viên.
Hiện nay, tỷ lệ giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư (đang tham gia giảng dạy) được đánh giá là thấp và có xu hướng giảm.
Theo nhiều chuyên gia, nguyên nhân một phần vì tiêu chuẩn xét duyệt giáo sư, phó giáo sư yêu cầu cao. Đặc biệt, các nhà khoa học trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn cho rằng, quy định về bài báo quốc tế đối với ứng viên lĩnh vực này chưa thực tế vì nhiều ngành mang tính đặc thù riêng.
Chia sẻ với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam về những trăn trở đối với vấn đề này, Giáo sư Vũ Dũng – Chủ tịch Hội đồng giáo sư ngành Tâm lý học nói rằng, có nhiều nguyên nhân dẫn đến sụt giảm tỷ lệ giảng viên giáo sư, phó giáo sư.
Đầu tiên là tiêu chuẩn xét chức danh giáo sư, phó giáo sư đòi hỏi cao hơn trước đây, đặc biệt là yêu cầu về bài báo quốc tế.
Tỷ lệ giảng viên chức danh giáo sư, phó giáo sư giảm vì xét chức danh giáo sư, phó giáo sư đòi hỏi cao hơn trước đây. (Ảnh minh họa: nguồn Vietnamnet)
“Bài báo quốc tế đối với một giảng viên trong trường đại học, đặc biệt với các giáo sư, phó giáo sư là cần thiết, vì đây cũng là điều kiện để chúng ta hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét một cách khách quan, toàn diện, có nhất thiết phải lấy bài báo quốc tế là một tiêu chuẩn cứng để xét hai chức danh này hay không? Nếu áp dụng một cách cứng nhắc với cả những ngành khoa học xã hội và nhân văn thì liệu có phù hợp?”, Giáo sư Dũng đặt vấn đề.
Thực tế, đối với các ngành thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, việc đăng bài báo quốc tế rất thuận lợi vì ít liên quan đến các vấn đề nhạy cảm hay các vấn đề chính trị của đất nước.
Trong khi đó, bài báo quốc tế của nhiều ngành khoa học xã hội, nếu không xem xét kỹ, không khéo sẽ ảnh hưởng tới lợi ích quốc gia. Ví dụ các ngành Triết học, Tôn giáo dục, Lịch sử, Tâm lý học,….
Giáo sư Vũ Dũng nêu ví dụ, trong ngành tâm lý học, những đề tài mang tính vấn đề, có số liệu cụ thể sẽ dễ được đăng hơn trên những tạp chí quốc tế lĩnh vực khoa học xã hội hơn các đề tài mang tính tích cực, ví dụ những đề tài như: sức khỏe tâm thần của người dân một quốc gia đang ở mức thấp; mức độ xảy ra bạo lực học đường ở một quốc gia; hay vấn đề về lo âu, trầm cảm của người dân ở một quốc gia,…
Vậy, nếu các nhà khoa học chỉ chăm chăm chạy theo những bài báo quốc tế, đăng những đề tài nghiên cứu như vậy thì liệu còn hình ảnh đẹp của người Việt Nam trên các Tạp chí nước ngoài hay không, điều này sẽ ảnh hưởng tới hình ảnh quốc gia mình.
Bên cạnh đó, nếu chỉ chú trọng công bố quốc tế, người dân Việt Nam sẽ rất ít có cơ hội tiếp cận được với kết quả nghiên cứu các ngành thuộc khoa học xã hội.
Chưa kể, trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, đa số nghiên cứu phải được thực hiện trong phạm vi cụ thể (quốc gia, khu vực), đối tượng và kết quả nghiên cứu phải phụ thuộc vào những khu vực cụ thể.
Một giảng viên trường đại học Việt Nam nếu cứ chạy theo bài báo nước ngoài trong khi những sinh viên, học viên, đồng nghiệp trong nước không biết đến những kết quả nghiên cứu đó, cũng không biết nghiên cứu đó phục vụ gì cho đất nước. Điều này cũng là vấn đề phải đặt ra, chúng ta sẽ không phát huy, phát triển tốt nghiên cứu khoa học trong nước.
“Bài báo quốc tế là rất cần thiết, nhưng không nên coi đó là tiêu chuẩn cứng, chỉ nên khuyến khích và ghi nhận bằng cách: ứng viên có bài báo được đăng trên các tạp chí thuộc danh mục ISI/SCOPUS thì được cộng thêm điểm. Bài báo có chỉ số càng cao thì càng được cộng nhiều điểm.
Chỉ nên dùng bài báo đăng trên các tạp chí trong nước có uy tín, có chất lượng làm tiêu chuẩn cứng. Như vậy, sẽ tạo điều kiện cho nhiều người có cơ hội trở thành giáo sư, phó giáo sư và đúng với thực tế, không gây khó khăn cho các ứng viên các ngành khoa học xã hội và nhân văn”, Giáo sư Vũ Dũng kiến nghị.
Video đang HOT
Có những nhà khoa học mất động lực phấn đấu trở thành giáo sư, phó giáo sư
Chia sẻ về hoạt động xét duyệt chức danh giáo sư, phó giáo sư những năm qua, Giáo sư Vũ Dũng cho biết, ngành Tâm lý học, số lượng ứng viên ngày càng giảm, năm nay chỉ có duy nhất một ứng viên. Và ứng viên này cũng không đáp ứng được tiêu chí về công bố quốc tế.
Trong lĩnh vực khoa học xã hội, có những ứng viên được đăng nhiều bài báo trong nước uy tín, có chất lượng, có viết và xuất bản sách chuyên khảo, giáo trình, sách tham khảo,… nhưng thiếu 1 bài hoặc 2 bài báo với điều kiện người đứng tên đầu trong bài báo quốc tế đó nên đã bị loại không được xét.
Xét giáo sư, phó giáo sư phải căn cứ vào đóng góp của người đó trong hoạt động đào tạo giáo dục và nghiên cứu khoa học ở trường đại học, ví dụ như thời gian cống hiến giảng dạy, hướng dẫn nhiều nghiên cứu sinh, hướng dẫn nhiều thạc sĩ bảo vệ thành công, có đủ số lượng bài báo trên các tạp chí uy tín của quốc gia, xuất bản được các đầu sách,,…
Nếu chỉ vì họ thiếu một bài báo là người đứng tên đầu mà những nỗ lực, cống hiến khác của họ không được công nhận, không đủ điều kiện để xét duyệt nữa thực sự không hợp lý.
“Chính vì tiêu chuẩn xét duyệt áp dụng cứng nhắc như thế nên đã khiến nhiều nhà khoa học mất đi động lực phấn đấu. Thế nên giảng viên chức danh phó giáo sư, giáo sư ở trường đại học những năm gần đây giảm đi nhiều.
Như một ngôi trường nổi tiếng về lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn, trong 10 năm nay không có giảng viên ngành tâm lý học nào được xét duyệt chức danh phó giáo sư.
Một trường đại học khác, cũng đến 7 năm, năm ngoái mới có 1 phó giáo sư ngành Tâm lý học.
Dù cho các tiêu chuẩn khác thừa, nhưng chỉ vì chỉ thiếu bài báo quốc tế mà họ đã bị loại, riêng ngành tâm lý học, số lượng ứng viên giáo sư, phó giáo sư ngày càng giảm”, Giáo sư Dũng trăn trở.
Theo Giáo sư Vũ Dũng, có thể tỷ lệ giảng viên giáo sư, phó giáo sư còn giảm, vì thế hệ giáo sư gạo cội sẽ nghỉ hưu, còn thế hệ kế cận lại ít được xét duyệt.
Đặc biệt theo quy định mới, viên chức được công tác thêm tối đa 5 năm, tính từ thời điểm nghỉ hưu. Dù là giáo sư, phó giáo sư hay tiến sĩ (giảng viên cao cấp) đều được kéo dài tuổi nghỉ hưu như nhau, nhiều nhà khoa học không còn muốn phấn đấu làm giáo sư, hay phó giáo sư nữa.
Chính sách của Nhà nước cần phải thực hiện nhưng nếu nhìn xa, những năm tới đội ngũ giáo sư, phó giáo sư các ngành khoa học xã hội và nhân văn ngày càng giảm, các trường đại học cũng sẽ ít đội ngũ này, điều này ảnh hưởng tới chất lượng giáo dục đại học.
Quy định về tuổi nghỉ hưu như vậy có thể dẫn tới các trường đại học công lập sẽ chảy máu chất xám, các nhà khoa học chuyển sang trường tư hoặc các tổ chức khoa học quốc tế.
5 đề xuất của GS.Nguyễn Văn Tuấn khắc phục những lỗ hổng trong xét duyệt GS,PGS
Hội đồng chức danh giáo sư xem công bố trên các tập san "quốc tế" có điểm tương đương nhau là vô lí.
(Phần 1)
Tiêu đề bài báo do Tòa soạn đặt.
Nhận thức được kĩ nghệ xuất bản khoa học dỏm và động cơ đằng sau của những người công bố trên tập san dỏm, tôi nghĩ các đại học Việt Nam và Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước (sẽ viết tắt là "Hội đồng") cần phải có những thay đổi về qui định liên quan đến công bố khoa học. Tôi nghĩ đến những thay đổi dưới đây:
Thứ nhất, xác định tập san chính thống
Vấn đề hiện nay là sự lẫn lộn giữa tập san dỏm và tập san chính thống. Sau vụ lùm xùm xét duyệt chức danh giáo sư năm 2020, Hội đồng ngành y đã quyết định lấy các tập san trong danh mục Web of Science (WoS), Scopus, Pubmed và ESCI (Emerging Scources Citation Index) là "tập san uy tín". Các ứng viên có bài trên các tập san trong các danh mục này sẽ được xét công nhận chức danh giáo sư.
Tôi cho rằng quyết định đó có thể dẫn đến sai lầm trong việc xét duyệt công nhận chức danh giáo sư. Vấn đề là các danh mục như Scopus, Pubmed và ESCI đều có những tập san dỏm. Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy số tập san dỏm trong danh mục Scopus và Pubmed lên đến hàng trăm, và ESCI cũng có hàng chục tập san dỏm.
Thật ra, có ước tính cho rằng tỉ lệ tập san dỏm trong danh mục ESCI là 0.61%, Scopus là 0.25%, nhưng WoS thì thấp nhất (0.1%). Chỉ riêng ngành thần kinh học, có hơn 10% các tập san trong chuyên ngành này trong Pubmed được giới chuyên gia đánh giá là dỏm. Do đó, dựa vào các danh mục này một cách vô điều kiện là dễ dẫn đến sai lầm.
Tôi đề nghị một cách phân loại tập san chính thống và "phi chính thống". Tập san chính thống là những tập san: Do các hiệp hội khoa học chính thống làm chủ quản và xuất bản bởi các nhà xuất bản học thuật; hoặc/và do các nhà xuất bản học thuật (như Elsevier, Springer-Nature, Wiley, Sage, Taylor & Francis, Routledge, Oxford, Cambridge, Harvard, MIT, Academic Press,...) lập ra nhưng được công nhận bởi cộng đồng khoa học.
Cách phân nhóm như thế đã tự động loại bỏ các tập san dỏm. Cũng không cần có trong Scopus hay WoS như là một tiêu chuẩn. Một tập san mới thuộc một hiệp hội khoa học có thể chưa có trong Scopus hay Clarivate, nhưng là tập san chính thống. Ví dụ như Journal of Endocrine Society, Osteoporosis and Sarcopenia, JBMR Plus,... tuy chưa có trong danh mục Clariavate hay Scopus, nhưng người trong chuyên ngành ai cũng biết là tập san chính thống. Người ngoài ngành có thể không biết và không am hiểu đủ để đánh giá các tập san này.
Thứ hai, x em xét đến uy tín của tập san khoa học
Trên thế giới, có hơn 50.000 tập san khoa học tạm xem là chính thống, và các tập san này nằm trong 2 danh mục chính là WoS (28560 tập san) và Scopus (37535 tập san). Nhìn chung, danh mục WoS chọn lọc hơn là Scopus, vì Scopus có xu hướng thu nhập những tập san có phẩm chất thấp và cả tập san dỏm.
Ảnh minh họa: nguồn Báo Nhân dân
Điều đó có nghĩa là các tập san khoa học không có uy tín như nhau. Chẳng hạn một tập san chuyên khoa nội tiết ( Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism) và tập san New England Journal of Medicine, tuy thuộc nhóm Q1 nhưng uy tín và chất lượng khoa học thì rất khác nhau. Tập san Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism có tỉ lệ từ chối khoảng 20%, nhưng New England Journal of Medicine có tỉ lệ từ chối lên đến 90%. Do đó, cũng là công bố trên "tập san quốc tế", nhưng không thể xem giá trị khoa học của bài báo như nhau.
Vấn đề hiện nay là Hội đồng chức danh giáo sư xem công bố trên các tập san "quốc tế" có điểm tương đương nhau! Thậm chí một bài báo trên một chuyên san trong nước (ví dụ như Tạp chí Y học Thực hành) lại có điểm y chang như một bài báo trên New England Journal of Medicine và Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism! Theo tôi đó là một sự vô lí.
Sự vô lí này không chỉ làm sai lệch cách đánh giá ứng viên cho chức danh giáo sư, mà còn vô hình chung khuyến khích làm nghiên cứu có chất lượng thấp. Người ta sẽ nghĩ cần gì phải gian khổ làm nghiên cứu đẳng cấp New England Journal of Medicine, chỉ cần làm nghiên cứu phù hợp với tập san trong nước là cũng có đủ điểm.
Tôi đề nghị tạm thời lấy hệ số ảnh hưởng (impact factor) và chỉ số H để xếp hạng tập san cho mỗi chuyên ngành. Dù biết rằng hệ số ảnh hưởng có khiếm khuyết (thậm chí bị phản đối), nhưng trong thực tế hầu hết các đại học và hội đồng đề bạt chức vụ khoa bảng đều lấy hệ số ảnh hưởng làm thước đo để đánh giá uy tín của một tập san. Ứng viên có bài trên các tập san hàng đầu trong mỗi chuyên ngành phải được đánh giá cao và ưu tiên hơn ứng viên công bố nhiều bài trên các tập san "làng nhàng".
Thứ ba, p hải phân biệt thể loại bài báo khoa học
Một vấn đề khác nữa là khái niệm "bài báo khoa học". Hiện nay, tiêu chuẩn để công nhận chức danh giáo sư là 5 bài, còn phó giáo sư là 3 bài. Nhưng qui định không nói bài báo đó là gì. Theo tôi, đó là một thiếu sót nghiêm trọng. Trong thực tế, có nhiều loại bài báo khoa học và giá trị của các bài báo cũng không tương đương nhau:
- Bài nguyên gốc (original contribution), có nghĩa là bài từ nghiên cứu nghiêm chỉnh, có giả thuyết, có phương pháp phân tích, và dữ liệu là dữ liệu gốc lần đầu được công bố;
- Bài case report (báo cáo ca lâm sàng), không phải là bài báo khoa học nguyên gốc, vì chẳng có giả thuyết hay mục tiêu gì cả, mà chỉ là mô tả;
- Bài tổng quan (review), tức là một dạng "đọc báo giùm bạn", điểm qua y văn từ những bài đã công bố trước đây. Đây không phải là nghiên cứu đúng nghĩa;
- Bình luận, tức những "Letter to the Editor", "Commentary", "Debate", "Editorial". Đây là những ý kiến cá nhân, cũng không thể xem là nghiên cứu.
Hiện nay, bài báo loại nào cũng được xem là "công bố quốc tế" và có giá trị như nhau! Nếu ứng viên có 10 bài case report được xem hơn người có 3 bài nguyên thuỷ! Đó là một sự vô lí vì trung bình hoá khoa học.
Tôi đề nghị để xét duyệt công nhận chức danh giáo sư, chỉ nên dựa vào bài nguyên gốc. Các bài báo khác (case report, tổng quan, ý kiến) không được tính, nhưng có thể dùng để đánh giá vị thế của ứng viên trong chuyên ngành.
Thứ tư, x em xét đến vai trò của tác giả trong bài báo khoa học
Ngày nay, nghiên cứu khoa học là một môi trường hợp tác đa ngành do đó mỗi bài báo có nhiều tác giả. Tính trung bình một bài báo y khoa có khoảng 5-7 tác giả. Nhưng trong thực tế cũng có những trường hợp tập đoàn khoa học mà bài báo có hơn 1000 tác giả! Do đó, vấn đề đặt ra là làm sao đánh giá được đóng góp của tác giả ứng viên trong bài báo.
Hiện nay, cách làm của Hội đồng là ... trung bình hoá. Chẳng hạn như một bài có 5 tác giả (kể cả ứng viên), thì điểm của ứng viên được xem là 1/5. Đó cũng là một sự vô lí. Trong "văn hoá" công bố khoa học ngành y sinh học, tác giả chính thường là tác giả liên lạc (correspondence authors). Tác giả liên lạc có thể đứng tên tác giả đầu, nhưng thường là người đứng tên tác giả cuối.
Đề bạt chức vụ khoa bảng là một hình thức ghi nhận đóng góp cho khoa học, nên tôi đề nghị hội đồng chỉ xem xét những bài ứng viên là tác giả chính, hoặc tác giả đầu, hoặc tác giả cuối. Một qui ước bất thành văn ở nước ngoài là ứng viên phải là tác giả chính, tác giả đầu, và tác giả cuối của ít nhất là 60% bài báo khoa học. Dĩ nhiên, các bài khác mà ứng viên là đồng tác giả vẫn được tính, nhưng đó không phải là những bài quyết định.
Thứ năm, h ãy bỏ sự lệ thuộc vào con số bài báo
Hiện nay, qui định về số bài báo khoa học rất cứng nhắc và thấp. Chẳng hạn như qui định rằng "ứng viên phó giáo sư phải có ít nhất 2 bài báo quốc tế, giáo sư phải có 3 bài báo quốc tế" là thấp và chưa rõ ràng. Nghiên cứu sinh ngày nay khi tốt nghiệp cũng có thể công bố ít nhất 2 bài báo khoa học trên các tập san trong danh mục WoS. Và, nếu nghiên cứu sinh qua giai đoạn hậu tiến sĩ 3 năm thì số bài báo khoa học tối thiểu là 6. Do đó, ứng viên giáo sư mà chỉ có 3 bài thì khó thuyết phục các nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ.
Theo tôi, không nên qui định về số bài báo khoa học, vì số lượng không nói lên chất lượng. Ngoài ra, sự lệ thuộc này rất dễ bị lạm dụng bằng cách công bố những nghiên cứu nhỏ và không quan trọng. Tôi đề nghị dùng chỉ số H để đánh giá. Ứng viên có chỉ số H bằng 10 có nghĩa là ứng viên đó đã công bố 10 bài báo khoa học, với số lần trích dẫn tối thiểu là 10. Do đó, chỉ số H phản ảnh cả số lượng và chất lượng, chỉ số này được các hội đồng đề bạt chức danh giáo sư nước ngoài sử dụng rất phổ biến.
Trong trường hợp Việt Nam, có thể lấy số liệu về chỉ số H cho cấp phó giáo sư ngành y là 5, và cấp giáo sư là 15 làm điểm tham khảo tối thiểu. Cần nói thêm rằng ở Mĩ, ứng viên phó giáo sư y thường có chỉ số H trung bình là 10, và giáo sư là 22.
Tiến tới chuẩn quốc tế
Ở các các đại học phương Tây, mục tiêu của việc đề bạt (hay "công nhận") giáo sư là nhằm nhận dạng nhân tài trong khoa bảng, nhận dạng người có khả năng lãnh đạo. Lãnh đạo thể hiện qua đa vai trò của ứng viên đó: là học giả, là nhà nghiên cứu, là thành viên của cộng hoà học thuật, là người có thẩm quyền, và là người phản biện xã hội. Một người chỉ có công bố khoa học mà thiếu những hình ảnh kia thì vẫn chưa thể là giáo sư.
Dựa trên nguyên lí đó, người ta đề ra 3 trụ cột về các tiêu chuẩn: nghiên cứu khoa học; giảng dạy và đào tạo; phục vụ cho chuyên ngành, xã hội, và tư cách lãnh đạo.
Nghiên cứu khoa học được thể hiện qua quá trình nghiên cứu và công bố khoa học, phẩm chất khoa học, và tầm ảnh hưởng. Không phải có hàng chục bài trên Nature hay Science hay có nhiều trích dẫn là tự động được bổ nhiệm giáo sư; người ta phải xét toàn diện quá trình nghiên cứu.
Giảng dạy và đào tạo được thể hiện qua các hoạt động như phụ trách các course học, thể hiện sự cách tân trong giảng dạy, kèm theo chứng cứ đánh giá của sinh viên. Giảng dạy còn bao gồm cả soạn sách giáo khoa (mặc dù tiêu chuẩn này không quan trọng cho giáo sư ngạch nghiên cứu). "Giảng dạy" ở đây cũng có nghĩa là hướng dẫn sinh viên hậu đại học như nghiên cứu sinh, và hướng dẫn nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ.
Phục vụ qua các hoạt động chuyên ngành, xã hội, và lãnh đạo bao gồm rất nhiều tiêu chuẩn về đóng góp cho chuyên ngành; đóng góp cho quốc gia nói chung và vai trò lãnh đạo về tri thức và khoa học. Lãnh đạo tri thức và khoa học ('intellectual leadership' và 'scientific leadership') rất quan trọng, đặc biệt ở cấp giáo sư thực thụ. Lãnh đạo thể hiện qua các vai trò lãnh đạo trong hiệp hội và tập san khoa học. Lãnh đạo khoa học còn thể hiện qua các bài xã luận và bình luận được các tập san mời viết và thể hiện qua các giải thưởng, các fellowship danh giá, và chức danh danh dự từ các đại học khác.
Do đó, để đề bạt giáo sư theo chuẩn mực quốc tế, thì cần phải soạn lại qui chuẩn. Bộ tiêu chuẩn về công bố khoa học phải phản ảnh sự khác biệt và công bằng giữa 2 ngạch giáo sư chuyên về nghiên cứu khoa học và giáo sư chuyên về giảng dạy. Điều quan trọng là giáo sư không phải chỉ là người công bố khoa học hay giảng dạy, mà còn phải có đóng góp cho xã hội (qua phản biện xã hội) cho chuyên ngành.
Tóm lại, những qui định về công bố khoa học trong việc xét duyệt công nhận chức danh giáo sư còn nhiều khiếm khuyết. Dựa vào các danh mục như Scopus và Pubmed hay ESCI một cách vô điều kiện dễ dẫn đến sai lầm về việc đánh giá và nhận dạng tập san dỏm. Ngay cả với tập san chính thống, việc đánh giá theo "chủ nghĩa trung bình" không chỉ vô lí mà còn gián tiếp khuyến khích nghiên cứu chất lượng thấp. Sự lệ thuộc vào số lượng bài báo làm lu mờ chất lượng là một khiếm khuyết dẫn đến sự bất công giữa các ứng viên.
5 đề nghị thay đổi trình bày trong bài này nhằm khắc phục những thiếu sót đó và giúp việc xét duyệt chức danh giáo sư gần hơn với tiêu chuẩn ở các nước tiên tiến.
Sau lùm xùm công bố quốc tế, hồ sơ ứng viên GS, PGS ngành Y 2021 'tốt hơn' So với năm ngoái, số lượng ứng viên được Hội đồng giáo sư cơ sở đề nghị xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư năm 2021 tăng thêm 35 ứng viên. Hội đồng Giáo sư Nhà nước vừa công bố danh sách 451 ứng viên được Hội đồng Giáo sư cơ sở đề nghị xét công nhận...