Tiếp tục nghĩ và bàn về giáo dục
Trước nhiều vấn đề còn tồn tại của ngành giáo dục, việc cần quan tâm đầu tiên là chấn chỉnh đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, chọn lọc và bổ nhiệm những người thật sự có năng lực chuyên môn và quản lý, có tư cách đạo đức tốt…
Đỗ Huyền Trinh:
Tôi rất bận, nhưng ngày nào tôi cũng quan tâm tới việc học của con, cháu và vào mạng chia sẻ nỗi lo lắng về giáo dục VN hiện nay mà những người thực tâm yêu nước, thương dân ngày đêm trăn trở.
Điều nổi cộm hiện nay là đội ngũ quản lý giáo dục cấp nào cũng có người tha hóa, ai không biến chất sẽ bị cô lập và bị loại ra khỏi vị trí đương nhiệm.
Còn nhìn chung đời sống đội ngũ giáo viên có nhiều khó khăn, thiếu thốn, trừ hiệu trưởng, hiệu phó, kế toán, tài vụ có “quỹ đen” chia chác với nhau.Giáo viên trực tiếp giảng dạy thì bị phân công và đối xử không công bằng. Nếu là con cháu hoặc cùng ê kíp với những người lãnh đạo thì sẽ được phân công dạy những lớp học sinh ngoan và nhiều học sinh khá giỏi và ngược lại những người không có ô dù thì phải dạy những lớp nhiều học kém cả về nhận thức và hạnh kiểm.
Việc tuyển sinh vào các trường cao đẳng sư phạm còn thiếu minh bạch và công bằng, cho nên nhiều học sinh yếu kém về trình độ và thiếu tư cách đạo đức cũng được nhận vào đây, rồi lúc tốt nghiệp vẫn trở thành các thầy cô giáo vì có ô dù trong khi nhiều em tốt nghiệp đại học sư phạm loại khá giỏi lại bị thất nghiệp.
Các loại sách tham khảo in ra quá nhiều với mục đích kinh doanh, làm tốn tiền phụ huynh và gây rối kiến thức học sinh, còn làm cho học sinh lười suy nghĩ vì có sẵn lời giải của các loại bài tập và những bài văn mẫu…
Trước nhiều vấn đề còn tồn tại của ngành giáo dục, việc cần quan tâm đầu tiên là chấn chỉnh đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, chọn lọc và bổ nhiệm những người thật sự có năng lực chuyên môn và quản lý, có tư cách đạo đức tốt vào những vị trí lãnh đạo chủ chốt trong ngành như hiệu trưởng, hiệu phó, trưởng phòng giáo dục và giám đốc, phó giám đốc sở GD-ĐT, không để những kẻ cơ hội. vụ lợi hoặc kém năng lực giữ những chức vụ đó. Ở cấp Bộ GD-ĐT, các vụ, viện GD cũng cần rà soát lại đội ngũ cán bộ, xem ai kém năng lực và thiếu tư cách, đạo dức cũng cần loại ra khỏi vị trí đương nhiệm.
Đây là công việc cần làm đầu tiên để tạo tiền đề cho việc xây dựng đội ngũ giáo viên vững mạnh trên cơ sở có chính sách đúng từ khâu đào tạo, tuyển dụng giáo viên cho đến việc sử dụng và đãi ngộ thỏa đáng, công bằng đối với người thầy, tạo điều kiện cho họ phấn đấu nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy.
(nguồn ảnh: internet)
Lê Đình Thuần:
Muốn thay đổi giáo dục cần thay đổi cách nghĩ cách làm : – khi bố trí một cán bộ lãnh đạo giáo dục cần thận trọng xem xét : năng lực, đạo đức, lối sống, không nên bố trí theo kiểu con ông A cháu bà B là “hạt giống đỏ” mặc dù học tại chức chuyên tu chưa dạy dược một giờ nào, chưa có kinh nghiệm thực tiễn thì không thể làm lãnh đạo. Chấm dứt việc chạy chức chạy quyền trong ngành giáo dục, có nhiều trường hợp giáo viên A bị tinh giảm biên chế ở trường này vì không có năng lực lãnh đạo nhưng lại bố trí làm hiệu trưởng trường kia. Cho nên trong giáo chức, thường có câu “nó dạy không được cho nó làm hiệu trưởng” để đỡ thiệt cho học sinh.
Video đang HOT
Không để xảy ra việc lấy tiền đút lót khi thuyên chuyển hoặc xin việc đối với giáo viên. Thường giá “mềm” nhất hiện nay là trăm triệu! Cấp cao hơn là các bác ở BỘ càng phải cân nhắc thận trọng hơn khi đề bạt cán bộ và nên giữ ổn định bộ máy quản lý. Về chương trình sách giáo khoa cũng vậy.Đừng để xảy ra tình trạng giáo viên chưa dạy xong SGK này lại thay SGK khác v .v…
Nguyễn Văn Toàn:
Theo tôi, để làm chuyển biến tình hình giáo dục hiện nay, Bộ GD-ĐT cầnquan tâm một số vấn đề sau:
1) Chất lượng cơ sở vật chất các trường học và các trang thiết bị phục vụ cho hoạt động dạy và học, tổ chức các hoạt động trong nhà trường.
2) Chế độ tiền lương cho giáo viên để đảm bảo được cuộc sống, với đồng lương hiện tại, không thể yêu cầu đội ngũ giáo viên tâm huyết, toàn tâm toàn ý với nghề để nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học. Vì cuộc sống, vì gia đình, vì con cái, người giáo viên phải bươn trải nhiều nghề khác để kiếm sống, lấy đâu ra thời gian để chuyên tâm giảng dạy.
3) Cần cải tổ phương thức trả lương cho giáo viên, không nên trả lương theo kiểu tăng lương định kì mà nên áp dụng trả lương theo sản phẩm đào tạo, theo hiệu quả làm việc của giáo viên, không phân biệt giáo viên công tác lâu năm hay giáo viên mới ra trường, cứ dạy tốt, học sinh đạt hiệu quả cao, được cha mẹ học sinh tin tưởng thì trả lương cao. Giáo viên không có chất lượng, trả lương thấp. Kiểu trả lương hiện nay nảy sinh tình trạng, giáo viên có chất lượng cao thì lương thấp, giáo viên lương cao thì chất lượng lại thấp. Cư “sống lâu là lên lão làng”!
4) SGK, nội dung chương trình và chuẩn kiến thức kĩ năng của các cấp học là dành cho học sinh trên toàn quốc trong khi trình độ nhận thức và dân trí của từng vùng miền là khác nhau, do vậy Bộ GD không nên cứ chạy theo dư luận của xã hội mà cần đối mặt với dư luận để giải thích cho các tầng lớp nhân dân hiểu!
5) Bộ giáo dục và các ngành chức năng không nên lấy các trường ở thành phố để làm tiêu chuẩn, chúng ta hãy xuống xem thực tế các trường nông thôn và vùng sâu vùng xa xem, cơ sở vật chất các nhà trường, đời sống của giáo viên như thế nào? Liệu có đủ các điều kiện để thực hiện được phong trào ” Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” không?
Trần Tâm:
Bài viết của Thầy Lanh là quá hay và chỉ đúng bệnh, như tôi cũng là một GV dạy học 28 năm nay càng ngày tôi thấy Giáo dục càng đi sâu vào việc “Hành là chính”: bắt làm đủ mọi thủ tục,hồ sơ, sổ sách, sáng kiến kinh nghiệm…,rồi phong trào hội giảng v.v…. trong khi chất lượng GD ngày càng kém,đạo đức HS ngày càng xuống cấp… Nhiều khi muốn bỏ nghề cho rồi!nhưng ngặt một nỗi hồi giờ chỉ quen dạy học bây giờ nếu bỏ thì làm nghề gì đây khi tuổi đã già rồi! càng nghĩ càng thấy buồn.
Lạc Hoàn:
Muốn cải cách giáo dục có hiệu quả, cần đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý giáo dục đi đôi với xây dựng lực lượng cán bộ quản lý cũng như đội ngũ giáo viên vừa có đủ năng lực chuyên môn vừa có tư cách, đạo đức tốt. Dù có cơ sở vật chất đầy đủ, CBGV chuẩn hoá, chương trình, SGK chuẩn, lương tăng mà kẻ giỏi, người tài cào bằng như hiện nay thì cứ trì trệ mãi. Phải có cơ chế đãi ngộ, sàng lọc, sa thải CBGV yếu kém về đạo đức, chuyên môn. Mỗi năm phải sa thải 3-5% đối tượng này bằng cách bắt nghỉ hưu trước tuổi hoặc hưởng chế độ thất nghiệp. Thi tuyển SV giỏi vào ngành. Đây là khâu đột phá. CBGV luôn phải phấn đấu rèn luyện, học tập nâng cao kiến thức, kỉ năng, nghiệp vụ để tránh bị sa thải. Đây là động lực để phát triển. 70 ngàn tỷ chi cho cải cách sắp tới hãy dành cho hoàn thiện đội ngũ. Thầy cho ra thầy thì trò sẽ ra trò, và dạy sẽ ra dạy, học sẽ ra học ngay. Mọi cái khác hay khoan đã. Hãy bắt đầu bằng sàng lọc người thầy.
Nguyễn Hùng:
Chúng ta thấy rằng hiện nay ngành giáo dục không phát triển đúng theo quy luật tương quan giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất .Ở đây QHSX chính là quản lý ngành quá lạc hậu luôn luôn ở tình trạng giải quyết tình thế khi mà lượng HSSV ngày càng đông và nhu cầu phát triển giáo dục ngày càng cao khi đời sống nhân dân được nâng lên .Việc cải cách ngành giáo dục phải toàn diện và có bước đi cụ thể mà trước hết phải từ khâu quản lý và cán bộ giảng dạy vì chỉ có phương pháp giảng dạy tốt cơ sở vật chất và đội ngũ quản lý chuyên nghiệp luôn được nâng cao và đón đầu mới là tiền đề đáp ứng được nhu cẩu phát triển ngành .Có dạy tốt thì mới học tốt .Việc chấn hưng giáo dục cũng phải dựa trên co sở đạo đức và văn hóa dân tộc chứ không phải chạy theo kiểu “quốc tế hóa” như hiện nay chỉ đáp ứng cho một thiểu số người có thu nhập cao nhưng thực chất về chất lượng giảng dạy cũng thường…và dễ bị ngộ nhận .
“Nhà giáo chúng ta sắp có thâm niên. Nhìn lên thì nhiều kẻ giàu có, nhưng cũng là số ít. Ai có năng lực thì mời ra khỏi ngành để có cuộc sống tốt đẹp hơn. Số còn lại nhà nước tiếp tục sàng lọc, nhiều sinh viên thiết tha với ngành, có tài năng sẽ xin vào ngành. Ai không yêu ngành, thiếu năng lực, sợ nghèo khổ cũng nên mời họ ra. GV hiện nay nơi nào cũng dôi dư lo gì không tuyển được người có tài và tâm huyết với nghề. Tất cả phải bắt đầu băng đội ngũ và đãi ngộ xứng đáng” – Lê Lạc Huân
Hồng Hạnh:
Tôi vào trường sư phạm từ năm 1998, thời đó tôi đỗ 2 trường đại học, nhưng do sư phạm được miễn giảm học phí nên chọn sư phạm cho bố mẹ đỡ vất vả. Đến nay tôi công tác được 10 năm – là giáo viên dạy môn toán lớp 8,9 và vẫn luôn là giáo viên dạy Giỏi, được phụ huynh quý mến… học sinh coi là thần tượng … tôi cũng vui.. Nhưng cứ khi đi họp lớp cấp III, nói thật là tôi buồn vì trước mình học không tồi mà giờ mình chẳng bằng ai về kinh tế. Không phải là không đủ điều kiện mà với chúng tôi lo cho 2 đứa con ăn học, lại nhà cửa….thật vất vả, lúc nào cũng căng đầu lo chi tiêu phù hợp, chẳng thể mua xe, chẳng thể có nhà riêng….
Nếu có thể thay đổi, tôi không chọn sư phạm, ngàn lần không chọn và với con cháu tôi cũng không tư vấn cho đứa nào đi sư phạm cả. Tôi thấy trường cao đẳng sư phạm- nơi tôi học trước đây đang chiêu sinh với mức điểm rất thấp vào trường – tôi thật lo ngại nhưng không có học sinh thì trường cao đẳng đó cũng chết mà có học sinh ở mức điểm đó thì liệu dạy ai. Nghề sư phạm cấp II thì quả thật kiến thức dạy không khó nhưng nghệ thuật sư phạm lại rất cần thiết – mà tôi đánh giá người có nghệ thuật sư phạm phải là người có trí tuệ – tức cũng là người học được chứ không phải trước học toàn văn hóa trung bình vài năm nữa đứng lên bục giảng thì chỉ góp phần cho gia tăng những học sinh dốt và vi phạm đạo đức của cả thầy và trò mà thôi !
Nguyễn Lương:
Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề giáo dục của nước nhà, điều này được thể hiện bằng những chủ trương, chính sách khuyến khinh đối với ngành giáo dục nói chung và đội ngũ cán bộ, giáo viên nói riêng. “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” đã được khẳng định trong Hiến pháp – một đạo luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, điều này cho thấy giáo dục có vai trò quan trọng như thế nào. Chúng ta muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa, và một trong những yếu tố làm nên con người XHCN là phải có học thức, năng lực và trình độ học vấn.
Muốn có được điều đó là phải nhờ đến giáo dục, phải có đội ngũ nhà giáo phải có năng lực và tâm huyêt với nghề. Muốn vậy thì một yếu tố tối quan trọng đó là tiền lương, “có thực mới vực được đạo” nếu không giải quyết được vấn đề này thì sẽ rất khó thu hút được nhân tài vào làm trong ngành giáo dục. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “lý luận phải đi đôi với thực tiễn, lý luận mà không gắn thực tiễn thì là lý luận suông”. Lý luận đã có nhưng thực tiễn thì ta đã làm được những gì đối với ngành giáo dục? đã giải quyết bản chất của vấn đề chưa? Không cần nói thêm ai cũng biết rồi, khổ lắm…
LTS Dân trí – Có thể ai cũng thấy rõ vai trò hết sức quan trọng của người Thầy trong sự nghiệp “trồng người” đối với tương lai của đất nước cũng như hạnh phúc của mọi gia đình. Và cũng không thiếu các em học sinh khá giỏi mong muốn được làm thầy cô giáo. Nhưng các em đều phải dừng bướctrước ngưỡng cửa các trường sư phạm vì những tấm gương tầy liếp về cảnh phải chạy chọt, đút lót để được tuyển dụng vào ngành giáo dục và đồng lương èo uột sau khi tìm được việc làm.
Rất nhiều bạn đọc còn nói lên những điều trăn trởvề tình trạng tiêu cực còn khá phổ biến ở các cấp quản lý và cơ sở giáo dục, giáo viên không được đối xử công bằng, làm nản lòng những thầy giáo có tâm huyết, do đó tình hình giáo dục ngày càng suy thoái, không phát huy được những yếu tố tích cực thì làm sao đổi mới được giáo dục cũng như nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Vì vậy, cần chấn chỉnh đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trước hết và cần có chính sách đãi ngộ thỏa đáng và công bằng đôi với đội ngũ giáo viên để tạo tiền đề cho công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện đối với giáo dục.
Theo DT
GS Hà Huy Khoái trò chuyện với GS Ngô Bảo Châu về toán học
Trò chuyện với GS Ngô Bảo Châu, GS Hà Huy Khoái cho rằng, để tồn tại, toán học Việt Nam đã qua thời khó khăn nhất; còn để phát triển lên một bước mới, toán học Việt Nam vẫn đang ở thời kỳ khó khăn nhất.
GS Ngô Bảo Châu: Tỉ lệ nhà toán học trên đầu người có lẽ không ở đâu bằng gia đình chú Khoái. Chú Hà Huy Hân là giáo viên toán, chú Hà Huy Vui là một nhà toán học Việt Nam hàng đầu trong chuyên ngành kỳ dị. Thế hệ sau còn có Hà Huy Tài, Hà Minh Lam và Hà Huy Thái. Đây là một điển hình về truyền thống gia đình hay là một sự ngẫu nhiên tai quái?
GS Hà Huy Khoái: Có thể gia đình chú không có "tỷ lệ trên đầu người làm toán cao nhất Việt Nam" (cũng có một số gia đình tương tự, như gia đình các giáo sư Phan Đình Diệu, Nguyễn Minh Chương,...). Tuy nhiên, chú bỏ qua việc cạnh tranh cái "kỷ lục" này, để trả lời câu hỏi tiếp theo. Đây đúng là một phần của truyền thống gia đình, một phần là kết quả của một sự TẤT NHIÊN tai quái (không phải "ngẫu nhiên", nhưng vẫn là "tai quái")! Truyền thống, vì cho đến những đời còn ghi lại được trong gia phả (cũng nhiều thế kỷ rồi), thì hình như các cụ kị của chú chỉ biết mỗi nghề...đi học! Có một số cụ đỗ đạt, nhưng có "làm quan" thì cũng chỉ trông coi việc học, như là Huấn đạo, Đốc học. Thành ra đến đời chú cũng chỉ biết tìm nghề học mà thôi. Vấn đề còn lại chỉ là: học cái gì? Ở phổ thông, chú thích học tất cả các môn: Văn, Toán, Sử, Địa,..., có lẽ chỉ trừ môn Thể dục! Thích nhất là Văn, Sử. Thời đó thì Toán có gì để thích đâu: không học thêm, không sách tham khảo, chỉ có sách giáo khoa thôi, mà hình như giáo khoa thời đó cũng dễ hơn bây giờ. Cho nên Toán chỉ được thích vì dễ! Có thể đó cũng là cái may lớn, vì chưa sợ Toán khi học phổ thông, nên sau này vui vẻ đi theo nghiệp Toán! Còn cái sự tất nhiên tai quái nào dẫn chú đến Toán, mà không phải Văn, thì là vì thời chú học phổ thông cấp 2, 3 (1958-1963) là thời mà sự kiện "nhóm Nhân văn - Giai phẩm" còn ồn ào lắm. Ông cụ thân sinh của chú, là một nhà giáo, khuyên các con theo nghề Toán, vì chắc chắn tránh được những nhóm tương tự! Còn thế hệ tiếp theo (Tài, Lam, Thái) thì có thể là do "quán tính"! Tuy vậy, nếu bây giờ cho chọn lại, chắc chú vẫn chọn nghề Toán!
GS.TSKH Hà Huy Khoái.
Chú đã sống với toán học và khoa học Việt Nam qua những thời kỳ rất khác nhau. Thời kỳ trước thống nhất đất nước, thời kỳ từ 75 đến khi bức tường Berlin sụp đổ, thời kỳ từ 1990 đến nay. Liệu chú có thể chia sẻ những suy nghĩ của mình về những sự biến đổi của khoa học Việt Nam trong từng thời kỳ này không?
Câu hỏi lớn quá, và ngẫu nhiên trùng với một ý định từ lâu của chú là viết một cuốn "Hồi ký toán học". Nói là "hồi ký" có thể không đúng lắm, nhưng là chú muốn viết về những điều "mắt thấy, tai nghe, đầu nghĩ" của mình về cái giai đoạn đầy biến động đó, mà chú may mắn (có thật là may không?) được chứng kiến. Không hiểu rồi cái "hồi ký" mà chú dự định có thể hoàn thành được không, nhưng nếu cần có câu trả lời (dù nhỏ) cho câu hỏi lớn của cháu, thì chú nghĩ có thể là thế này.
Trong biến động nào cũng có hai phần: tinh thần và vật chất, dĩ nhiên là không độc lập với nhau. Trước 1975, hầu như cả dân tộc Việt Nam sống bằng niềm tin vào ngày thống nhất đất nước. Niềm tin đó giúp người ta vượt qua mọi khó khăn về vật chất. Khoa học Việt Nam, Toán học Việt Nam cũng không nằm ngoài không khí chung đó. Khổ, nhưng thấy học toán, làm toán là một niềm vui lớn. Đặc biệt, những năm đầu tiên bước vào ngành toán chính là những năm để lại nhiều ấn tượng nhất trong cuộc đời làm toán của chú, khi được cùng GS Lê Văn Thiêm và mấy người đàn anh áp dụng phương pháp nổ mìn định hướng vào việc nạo vét Kênh nhà Lê phục vụ giao thông thời chiến. Trong chiến tranh, hình như con người lại "lãng mạn" hơn trong thời bình. Lãng mạn, vì ít tính toán hơn. Cũng có thể không có gì để tính toán. Mà lãng mạn thực sự là điều cần cho những ai đi vào toán học, vì nghề làm toán lại là nghề khó "tính" trước nhất! Có ai dám chắc mình sẽ được kết quả gì trong tương lai.
Thời kỳ đầu sau 1975 là thời mà toán học Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Rất nhiều người được cử đi học tập ở nước ngoài, kể cả ở các nước phương Tây. Nhưng rồi những thuận lợi đó nhanh chóng qua đi, khi vào khoảng 1985 kinh tế Việt Nam bộc lộ những khủng hoảng trầm trọng của cái thời mà ta gọi là "tập trung, quan liêu, bao cấp". Không thể sống bằng nghề làm toán với đồng lương ít ỏi, một số phải đi dạy học ở châu Phi, số khác tìm những nghề "tay trái" (nhưng thu nhập hơn nhiều lần "tay phải"), một số khác may mắn hơn thì tìm kiếm được những học bổng để đi nước ngoài. Ngành toán Việt Nam vượt qua được giai đoạn gay go đó trước hết nhờ vẫn còn có những người chịu "sinh nghề, tử nghiệp" với toán, và cả những người "may mắn" nhận được học bổng nước ngoài để sống và tiếp tục làm toán.
Sau 1990, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới. Toán học Việt Nam cũng đứng trước thách thức hoàn toàn mới. Có lẽ lần đầu tiên, những người làm toán ở Việt Nam phải tự đặt câu hỏi: tại sao lại làm toán, mà không làm nghề khác (có thể kiếm nhiều tiền hơn)? Cái thời mà làm việc gì cũng nghèo như nhau, thì ai thích toán cứ làm toán. Bây giờ, thích toán nhưng cần tiền, có làm toán nữa không? Cái chất "lãng mạn" mà toán học rất cần đã không còn, hay là còn rất ít đất sống. Ông Frédéric Pham đã từng đặt câu hỏi "Y-aura-t-il toujours des mathematiciens au Vietnam l'an 2000" (Gazete de mathematiques, vol. 64, pp. 61-63, 1995). Nhưng toán học Việt Nam, năm 2000, vẫn tồn tại qua thời khủng hoảng. Có thể là do kinh tế Việt Nam cũng đã bước qua khủng hoảng. Cũng có thể do những ai đã chọn toán làm nghề nghiệp của mình thì cũng không đòi hỏi quá nhiều về vật chất, nên họ dễ tự bằng lòng với cuộc sống không cần quá nhiều tiền của mình! Có ai đó nói: "Không nên lãng mạn hóa cái nghèo", đúng lắm, nhưng cũng đừng để cái nghèo giết chết lãng mạn. Không còn lãng mạn sẽ không còn âm nhạc, thơ ca, không còn toán học.
GS Ngô Bảo Châu.
Chú nghĩ như thế nào về tương lai của toán học Việt Nam?
Cháu hỏi chú nghĩ gì về tương lai? Để tồn tại, có lẽ toán học Việt Nam đã qua cái thời khó khăn nhất. Còn để phát triển lên một bước mới: chắc vẫn đang ở thời kỳ khó khăn nhất. Xã hội Việt Nam đang trong cái thời kỳ đầu của "kinh tế thị trường", cái thời mà chuẩn mực của sự "thành đạt" nhiều khi được đo bằng tiền. Mà tiền chính là cái các nhà toán học có ít nhất! Vậy nên, chỉ những người có quan niệm khác về "thành đạt" mới có thể chọn toán làm nghề nghiệp của mình. Về tương lai của toán học Việt Nam, chú trông chờ hai điều: 1/ nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển để đến khi các nhà doanh nghiệp Việt Nam không còn tự hài lòng với việc giàu lên do làm người bán hàng cho nước ngoài, hoặc người bán nguyên liệu của nước mình cho nước ngoài. Đến khi họ không muốn và không thể tiếp tục làm giàu theo cách đó, họ sẽ cần đến khoa học công nghệ. Khi đó, khoa học cơ bản, toán học sẽ có tiếng nói của mình. 2/ các nhà lãnh đạo thấy rõ đầu tư cho khoa học cơ bản - cũng có thể xem là một phần của việc đầu tư cho giáo dục - là việc làm lâu dài, bảo đảm cho sự phát triển bền vững, là việc của Nhà nước. Nói cách khác, những nhà lãnh đạo cũng cần phải "lãng mạn", để nhìn được tương lai xa hơn những lợi ích trước mắt có thể "cân đo đong đếm" dễ dàng.
GS Hà Huy Khoái
Cháu cũng thấy thật đáng sợ khi người ta lấy đồng tiền làm thước đo cho mọi thứ. Trong cuộc sống, mình vẫn phải tính toán thiệt hơn, nhưng không thể đem cái tính toán thiệt hơn ra làm nền tảng xã hội. Dù sao thì cháu vẫn tin đến lúc nào đó thì chúng ta sẽ tỉnh lại, vì cái căn của con người Việt Nam vẫn là sự tử tế.
Người làm toán bao giờ cũng gặp mâu thuẫn giữa ý muốn làm được cái gì thật hay với việc phải "sản xuất đều đều công trình" (nhất là khi phải xin tài trợ). Theo cháu làm thế nào để sống yên ổn cùng một lúc với hai ý muốn đó?
Theo cháu, mỗi người làm toán nên giữ riêng cho mình một câu hỏi lớn. Có thể không trả lời được ngay, có thể sẽ không trả lời được trong phạm vi hữu hạn của cuộc sống mình có. Nhưng nó sẽ là một cái đích để mọi việc mình làm trở nên logic chứ không ngẫu nhiên và không bị chi phối bởi những gì ầm ĩ nhất thời. Ngược lại, trong mỗi việc cụ thể mình làm thì lại không nên câu nệ xem đây là bài toán to hay nhỏ, mà bản thân mình thấy hay là được. Có điều mình phải luôn tự nhủ phải trung thực với bản thân. Chú có biết cái câu thơ này của ông Bảo Sinh không:
Tự do là sướng nhất đời
Tự lừa còn sướng bằng mười tự do.
Người làm toán nào cũng ít nhiều thích "nổi tiếng", nhưng khi quá nổi tiếng (chẳng hạn được Fields) thì hình như sự nổi tiếng lại thành gánh nặng. Cháu có lời khuyên thế nào với các bạn trẻ?
Cháu nghĩ ai cũng cần sự công nhận, sự tôn trọng từ những người khác. Trường hợp ông Perelman là rất ngoại lệ. Còn sự nổi tiếng theo kiểu tài tử xi nê thì thực ra rất là bất tiện. Chỉ có điều trong trường hợp của cháu, mình không có cách nào khác ngoài chấp nhận nó, rồi cố gắng hướng nó vào những việc có ý nghĩa.
Khi tiếp xúc với những nhà toán học nước ngoài, chú có cảm giác nói chung họ biết nhiều hơn (về những thứ "không toán", hay có thể gọi chung là "văn hóa") so với những người làm toán ở nước ta. Cháu có thấy thế không? Có thể giải thích thế nào về hiện tượng này, và nó ảnh hưởng thế nào đến chính việc làm toán của "họ" và "ta"?
Cháu lại thấy các nhà khoa học phương Tây hay thắc mắc làm sao mà người phương Đông, không chỉ riêng các nhà khoa học, ai cũng là triết gia. Có thể là cái phông văn hóa phương Đông và phương Tây rất khác nhau, nên ai cũng thấy người kia biết những thứ mà mình mù tịt. Nhưng đúng là cái phông văn hóa có chi phối hoạt động khoa học. Ở phương Đông cháu thấy người ta thích cái kiểu tầm chương trích cú quá.
- GS Ngô Bảo Châu
Có một cái các nhà khoa học phương Tây, tính cả Ấn Độ, hiểu biết hơn hẳn các nhà khoa học phương Đông, đó là âm nhạc, nói rộng ra là khả năng cảm thụ thẩm mỹ. Theo cháu cái khả năng này là một phẩm chất không thể thiếu của người làm toán.
Là một người gắn bó với khoa học Việt Nam gần như từ lúc khai sinh, chú Khoái có thể nói một vài lời cho những bạn trẻ đang chuẩn bị dấn thân vào con đường khoa học không?
Chú không thích lắm cái chữ "dấn thân". Nó làm cho người đi vào khoa học có vẻ như ra chiến trường, có vẻ như sẵn sàng hy sinh vì người khác. Thực ra đi vào khoa học cũng không phải "hy sinh" cái gì hết. Ta làm khoa học vì ta thích hiểu biết, thích sáng tạo. Làm khoa học thì được đọc nhiều, tức là được thụ hưởng hơn người khác cái kho tàng tri thức vô giá của nhân loại. Mà đã thụ hưởng thì có nghĩa vụ đền đáp, tức là phải cố gắng góp được cái gì đó, dù nhỏ. Cuộc sống bao giờ cũng sòng phẳng. Nếu mình đã được làm cái mình thích thì cũng không nên đòi hỏi cuộc đời cho lại đầy đủ mọi thứ như người khác. Thích hiểu biết (thực chất cũng là một thứ hưởng thụ) mà lại vẫn mong có rất nhiều tiền; thích tự do làm cái mình muốn mà vẫn mong có nhiều quyền; thích được yên tĩnh để đắm mình vào suy tư riêng mà vẫn mong cái sự nổi tiếng - đó là những mâu thuẫn mà nếu không nhận thức ra thì cứ tưởng mình đang phải hy sinh, đang "dấn thân"! Làm khoa học cũng là một nghề, như mọi nghề khác. Nếu thích giàu thì nên đi buôn, thích quyền thì nên đi làm chính trị, thích hiểu biết, thích tự do thì nên đi vào khoa học. Nghề nào cũng có cái "được" và "mất". Quan trọng nhất là hiểu cho được mình thực sự cần cái gì. Điều này không dễ, nhất là khi người ta còn trẻ.
Bởi vậy, nếu định chọn con đường khoa học thì nên tự hỏi: có phải cái mà mình mong muốn nhất là tri thức và tự do không?
Trong cuộc đời, ai cũng có thể mắc sai lầm. Theo cháu, bao giờ thì một người cần nhận ra rằng mình đã sai lầm khi chọn nghề Toán, và nên đổi sang nghề khác?
Cháu thấy có nhiều lý do khiến người ta có thể từ bỏ nghề Toán và chọn một nghề khác. Trong trường hợp không nhìn thấy triển vọng nào để nghề Toán tạo cho gia đình mình một cuộc sống tạm gọi là tươm tất, thì Toán không còn là nghề nữa mà là một dạng nghệ thuật để theo đuổi. Để theo đuổi một nghệ thuật thì cần một tình yêu mãnh liệt lắm. Đấy là nghĩa của từ dấn thân mà cháu sử dụng. Nhưng đo độ mãnh liệt của tình yêu thì không dễ.
Để làm toán, người ta chỉ sử dụng một số khá hạn chế khả năng của con người, nhưng lại sử dụng chúng một cách tối đa. Khi nhận ra rằng mình thiếu một số khả năng để làm nàng Toán hoan hỉ, mà lại thừa những khả năng mà nàng ta lờ đi, thì có khi cũng nên tìm một nghề khác với nghề nghiên cứu Toán. Yêu đơn phương lâu dài thì mệt lắm
Theo Tia Sáng
Cùng nghĩ suy và hiến kế về Giáo dục "Bài viết của GS-NGND Nguyễn Ngọc Lanh quá hay. Nếu tất cả những nhà giáo dục, quản lý giáo dục đều cùng có cách nhìn như vậy thì nền giáo dục nước nhà thực sự tốt đẹp"- bạn đọc với nick Hoàng Vân nhận xét. Bên cạnh đó bạn đọc này chia sẻ thêm: "Thời thế đã đổi khác, luôn luôn thay đổi,...