Tiếng kẻng học bài níu con chữ với học sinh vùng cao
Khi mặt trời nấp mình sau ngọn núi, cũng là lúc những tiếng kẻng giòn giã đồng loạt vang ngân khắp đại ngàn, len lỏi vào từng góc nhà, báo hiệu đã đến giờ những em học sinh phải ngồi vào bàn học bài.
Có lẽ với học sinh (HS) miền xuôi, chuyện ngồi vào bàn học bài mỗi buổi tối là một việc rất đỗi bình thường, là thói quen được rèn luyện từ khi biết cầm cây bút. Ngược lại, với những HS người đồng bào dân tộc thiểu số ở đại ngàn Tây Nguyên nói chung và huyện Ngọc Hồi, Kon Tum nói riêng, thì lại là cả một vấn đề đầy thử thách và khó khăn. Bởi, phần lớn nhận thức của người dân nơi đây còn nhiều hạn chế, xem cái chữ không bằng việc làm cho no cái bụng, vì vậy, phụ huynh chỉ mong con mình nhanh lớn để làm rẫy được nhiều hơn còn HS phải vất vả mưu sinh từ nhỏ, không được cha mẹ nhắc nhở nên chuyện học bài ở nhà đối với các em là một thứ gì đó rất xa lạ.
Đúng 19 giờ, anh Tin – trưởng thôn đánh kẻng ra hiệu cho học sinh đến giờ học bài.
Và hệ lụy là số HS có học lực yếu chiếm tỷ lệ rất cao, đặc biệt, sau 3 tháng hè thì nhiều em đã “đánh rơi” gần hết kiến thức đã học trước đó, thậm chí có một số em không muốn quay trở lại trường nữa. Các giáo viên tưởng chừng như bất lực, vô vọng trong công cuộc làm thay đổi nhận thức của học sinh.
Nhưng từ năm 2007, sáng kiến về mô hình “ tiếng kẻng học tập” đã là bước ngoặt làm thay đổi tình hình giáo dục của huyện Ngọc Hồi, Kon Tum. Mỗi buổi tối, thay vì đi chơi, hay đi ngủ sớm như trước kia, già làng, thôn trưởng, các liên hội và phụ huynh phải có nhiệm vụ “áp tải” con em mình vào bàn học bài. Để làm được điều này, các cán bộ phòng Giáo dục cùng các giáo viên của trường Tiểu học và Trung học cơ sở phối hợp với chính quyền địa phương, đặc biệt là già làng, trưởng thôn tuyên truyền, vận động, phân tích tác dụng của mô hình “tiếng kẻng học tập” với người dân.
Sau tiếng kẻng, các em học sinh liền ngồi vào học bài, có đi chơi cũng chẳng có ai để chơi.
Trước những cố gắng trên của các cán bộ ngành giáo dục cùng quyết tâm của các già làng, trưởng thôn, các liên chi hội của thôn, sáng kiến “tiếng kẻng học tập” cuối cùng cũng đã được toàn bộ phụ huynh hưởng ứng. Bắt đầu từ 19 giờ trưởng thôn sẽ có nhiệm vụ đi đến nhà rông của làng để đánh kẻng, báo hiệu giờ ngồi vào bàn học bài đã đến, phụ huynh sẽ nhắc nhở con em mình vào bàn học bài, các giáo viên cùng cán bộ thôn sẽ đến từng gia đình học sinh để kiểm tra việc học của các em… và đến 21 giờ thì một hồi kẻng nữa lại được gióng lên cũng là lúc những học sinh được phép nghỉ ngơi.
Anh Xiêng Thanh Tin, trưởng thôn Nông Nội, xã Đắk Nông cho biết: “Cứ 19 giờ mỗi tối dù nắng hay mưa, chúng tôi đều phải đi đánh kẻng, đến 21 giờ đánh lại cho các em nghỉ. Thôn cũng lập ra Liên hội trưởng để tổ chức đi đến tận nhà HS, không cho các em xem tivi trong giờ học, phụ huynh cũng hạn chế xem tránh làm ồn ào ảnh hưởng đến việc học của các em”.
Video đang HOT
Anh Nguyễn Ngọc Hiền, cán bộ Phòng Giáo dục huyện Ngọc Hồi chia sẽ: “Để thay đổi nhận thức của phụ huynh và HS ở đây là việc làm rất khó khăn, bà con nơi đây thường có thói quen tụ tập uống rượu, vui chơi và HS cũng vậy. Chúng tôi phải vận động phụ huynh nếu có uống rượu, hay vui chơi thì ra nhà rông để tránh gây ồn ào làm ảnh hưởng đến việc học của HS”.
Đặc biệt, để các phụ huynh và HS thực hiện có nề nếp già làng cũng đã ra một điều “luật” mới, nếu gia đình nào làm ảnh hưởng đến việc học tập ở nhà của con em mình hoặc làng xóm nặng thì sẽ bớt gạo, nhẹ thì bị chậm phát trợ cấp, hỗ trợ gạo, muối… của nhà nước hơn những gia đình khác. Chính vì vậy, gần 5 năm nay, kể từ khi mô hình học bài ở nhà được áp dụng chưa có bất kì phụ huynh nào vi phạm “điều luật” trên.
Đang chăm chú học bài, em Xiêng Thanh Tú (học lớp 7, Trường THCS Đăk Nông) bẽn lẽn: “Nhà em thường ăn cơm sớm để chúng em học bài đúng giờ. Bố mẹ em không cho đi chơi như trước kia nữa, nếu đi chơi là bị mắng, mà bây giờ bạn nào cũng ở nhà học bài có ra ngoài cũng không có ai để chơi cả nên cũng phải quay về học. Bây giờ bọn em cũng quen rồi, cứ đến giờ là tự ngồi vào bàn học bài thôi”.
Không chỉ giúp các em học vào “guồng” học bài ở nhà, mà để nâng cao chất lượng học tập của các em, vào mỗi buổi tối các giáo viên bám bản, bám làng lại lặn lội đến những gia đình các em học sinh yếu kém để giúp các em học bài. Hoặc cử những em có học lực khá đến học nhóm với những bạn học kém để giúp các bạn tiến bộ.
Anh Hiền cho biết, do đời sống kinh tế của bà con nơi đây còn nhiều khó khăn, và do nhiều tập tục còn lạc hậu, trước đây các em HS không có lấy một góc để học bài. Chúng tôi phải đến từng gia đình thiết kế cho các em chỗ ngồi học, nhà nào có điều kiện thì vận động phụ huynh mua cho con bàn học, còn nhà nào khó khăn chúng tôi dạy các em lấy cây tre, nứa để làm bàn rồi để mấy tấm giấy cứng như thùng mì tôm kê lên trên cho bằng phẳng để các em học bài…
Trước những cố gắng trên của toàn thể cán bộ giáo viên và cán bộ thôn làng ở đây, gần 5 năm nay nền giáo dục huyện Ngọc Hồi đã như được lột xác, nhận thức của người dân đang thay đổi từng ngày, chất lượng học tập của các em học sinh được nâng cao hơn. “Trước đây, tỷ lệ học sinh yếu kém rất nhiều, nhưng những năm gần đây tỉ lệ này đã giảm rõ rệt. Các em có học lực yếu kém thì lên trung bình, còn số em có học lực khá cũng tăng lên, tỷ lệ các em học sinh bỏ học cũng đã giảm hẳn. Đặc biệt, chuyện “đánh rơi” kiến thức sau mỗi kì nghỉ hè đã được đẩy lùi, vào đầu năm học các em vẫn giữ được “phong độ” học tập của mình”, anh Hiền vui mừng nói.
Thiên Thư
Theo dân trí
Tiếng kẻng "gọi trò" ở Thào Xua Chải
Hơn 10 năm lặn lội cùng thầy cô "cắm bản", Sùng A Vàng chưa một ngày "tắt lửa" niềm đam mê mang con chữ về bản.
Khi sân trường vắng tiếng kẻng
Điểm trường Thào Xua Chải ở xã Nậm Có, huyện Mù Cang Chải (Yên Bái) vẫn lặng như tờ,mặc dù khai giảng đã lâu. Thầy Phùng Quang Sáng và vợ là cô giáo Ngụy Thanh Hương, lên đây dạy học từ ngày đầu tiên thành lập điểm trường vào năm 1998, chưa bao giờ thấy xót xa như thế khi chứng kiến cảnh tượng này. Ngày trước, trường còn ở dưới chân núi, tình trạng thiếu học sinh là chuyện thường tình, vì bà con dân tộc Mông ở Nậm Có chỉ sống trên cao. Giờ trường chuyển lên cao cho thuận lợi, học sinh lại còn ít hơn.
Nhớ ngày đầu điểm trường này thành lập, thầy đã nghĩ ra cách treo một chiếc kẻng làm từ mảnh vỡ của quả bom để gọi học sinh. Nhưng càng gọi càng thiếu bóng các em, vì ngay từ lúc nhỏ chúng đã phải theo cha mẹ lên nương.
Nhiều đêm, cô Hương gục vào vai chồng nức nở. Cô khóc vì thương hoàn cảnh các em nghèo quá, bố mẹ chúng không đủ gạo nuôi con tới trường. Cô cũng khóc vì làm giáo viên mà không có học sinh. Vậy là hai vợ chồng cứ ngày nọ, tháng kia nhìn chiếc kẻng treo trên cột lớp buồn tênh. Nhưng vẫn có 2 học sinh dân tộc Mông gần trường ngày ngày đến lớp. Chúng là con của Sùng A Vàng. Cả Thào Xua Chải chỉ có Sùng A Vàng nói sõi tiếng phổ thông.
Sân trường Thào Xua Chải chỉ còn lại chiếc kẻng. Thi thoảng, vài đứa trẻ con sang đánh leng keng. Sùng A Vàng đã nhiều lần đứng trước chiếc kẻng đó. Anh biết điểm trường này chỉ có 2 đứa học sinh. Và anh quyết định cho con mình nghỉ học, vậy là sân trường chỉ còn lại chiếc kẻng sắt đìu hiu trong lặng ngắt.
"Để tao dạy tiếng Mông cho thầy cô"
Đã bao nhiêu lần thầy, cô lên các bản như Làng Giàng, Tà Ghênh để vận động học sinh tới lớp nhưng đều không có kết quả vì chưa quen địa bàn, không hiểu và nói được tiếng của người Mông. Có nhiều gia đình học sinh ở rất xa, đi bộ nửa ngày đường chưa tới nơi, thậm chí phải ngủ lại nếu gặp trời mưa. Sau này, nhiều thầy cô được tăng cường lên đây cũng không thể cải thiện được tình hình.
Một lần, khi đang làm nương, Sùng A Vàng thấy thầy Trịnh Văn Hoàng và những giáo viên khác đang trao đổi, vận động để ông Giàng Seo Vảng cho con tới lớp, nhưng họ nói câu gì ông Vảng cũng lắc đầu không hiểu. Sùng A Vàng vội chạy xuống bảo: "Thầy cô, để tao nói cho". Anh dùng tiếng của đồng bào để truyền đạt lại lời thầy Hoàng cho ông Giàng Seo Vảng hiểu và ông này gật đầu liên tục.
Mấy hôm sau, ông Vảng trực tiếp dẫn con mình tới lớp, theo sau còn có mấy cặp gia đình khác. Lớp học từ đó dần đông hơn. Thế là thầy cô đã hiểu, bất đồng ngôn ngữ là trở ngại lớn nhất không chỉ trong công tác tuyên truyền, vận động mà còn khiến họ "bất lực" khi lên lớp dạy chữ cho các em.
Sùng A Vàng xuống nói với thầy cô trong trường: "Muốn đông học sinh thì phải biết tiếng của nó đấy. Từ ngày mai, để tao dạy chữ cho thầy cô, dạy xong tao lại đưa thầy, cô xuống bản vận động. Khi nào bọn mày nói sõi tiếng Mông rồi thì tự mà đi". Sau lần ấy, mỗi khi xuống nương, đêm nào Sùng A Vàng cũng xuống điểm trường Thào Xua Chải để dạy tiếng Mông và học tiếng Kinh. Hôm sau, anh lại cùng mọi người trèo đèo, lội suối đến từng nhà vận động các em.
Đời sống của bà con ở đây rất nghèo. Phần lớn giáo viên phải quyên góp tiền lương mua sách vở, quần áo cho các em nhưng chúng vẫn nghỉ học ở nhà trông em hoặc lên nương kiếm cái ăn cùng bố mẹ. Đội ngũ giáo viên trong điểm trường đều là người miền xuôi nên không am hiểu hết phong tục, tập quán của bà con.
Suốt trong 3 năm, người ta vẫn thấy Sùng A Vàng đồng hành cùng thầy cô lặn lội đêm ngày đến các gia đình vận động các em tới học chữ. Nhiều người không nghĩ anh là một người Mông, mà tưởng rằng là một thầy giáo ở dưới xuôi lên nhận công tác. Do thông thạo địa hình, cùng là người Mông nên việc tuyên truyền của anh đem lại kết quả rất cao.
Nhớ ngày đầu, lớp học chỉ có 2 - 3 học sinh, thậm chí có lúc chỉ còn lại mỗi chiếc kẻng, vậy mà giờ đây học sinh đua nhau đến học. Nhiều gia đình ở xa, bố mẹ phải đưa con đi và giờ học họ cũng ngồi luôn trong lớp, thành ra người lớn cũng biết tiếng phổ thông nhiều hơn. Trưởng bản Giàng A Dê họp dân bản lại và thống nhất bầu Sùng A Vàng vào Ban bảo trợ giáo viên, vừa làm công tác tuyên truyền vận động, vừa cùng giáo viên đứng lớp để phiên dịch "song ngữ" cho cô và trò.
Sùng A Vàng và vợ bên chiếc kẻng.
Tình nguyện vì con chữ vùng cao
Mặc dù chưa nhận được một đồng lương nào, nhưng Sùng A Vàng vẫn miệt mài với công việc. Thương anh vất vả, một số thầy cô đã góp tiền, gạo, muối để ủng hộ anh chút ít nhưng anh không nhận. Anh bảo: "Tao nhận gạo này khác nào tao "cướp" cơm của dân bản tao. Vì không nhận, tao biết thầy cô cũng cho học sinh dân bản thôi".
Tôi lặng lẽ nhìn theo Sùng A Vàng lấy từng đoạn xích xe đạp cuốn chặt vào chiếc lốp "Con Uây Tàu". 2h sáng nay anh mới xuống núi, vậy mà giờ lại lên đó ngay. Có lẽ cái bụng rỗng tuếch kia đang sôi lên ùng ục vì đói và rét. Đường vùng cao là thế, chỉ mưa một tí đã trơn như đổ mỡ, nên phải cuốn xích xe đạp vào bánh xe máy để làm tăng ma sát. Từ ngày thành lập trường đến nay, đã 13 năm anh cùng thầy cô lặn lội tới trường. Vợ anh ở nhà một mình nuôi các con, để chồng giúp thầy cô đem cái chữ về cho bản làng.
Thế mới biết hành trình đến với cái chữ của người vùng cao vất vả như thế nào. Điểm trường Thào Xua Chải hiện nay đã khá đông học sinh và tất cả các em đều là dân tộc Mông. Hơn 10 năm lặn lội từ ngày còn là một chàng thanh niên, đến nay, Sùng A Vàng vẫn chưa một ngày "tắt lửa" niềm đam mê ấy. Hôm nay, anh và các thầy cô giáo nơi đây đã không còn vất vả lặn lội đêm ngày để gõ cửa từng nhà tìm học sinh, bởi chiếc kẻng treo nơi sân trường chỉ cần "thỉnh lên", học sinh đã bảo nhau cắp sách xuống núi.
Theo Hoàng Nghiệp/Báo TNVN
Dạy học sinh cá biệt: Lạt mềm buộc chặt Làm sao dạy học sinh cá biệt nên người luôn là câu hỏi khó tìm lời giải. Nhưng có những giáo viên vẫn chịu khó, sáng tạo để tìm ra "thuốc đặc trị". Đồng cảm và bảo vệ Ông Trần Tấn Tài - Phó phòng Giáo dục Q.5, TP.HCM, nhiều năm làm Hiệu trưởng Trường THCS Trần Bội Cơ cho biết, ông đã...