Tiến thoái lưỡng nan với máy mượn, máy đặt tại bệnh viện công
Bộ Tài chính đề nghị các đơn vị khám chữa bệnh không mượn máy hoặc đặt máy trong viện khiến người bệnh, các cơ sở y tế “tiến thoái lưỡng nan”.
Để “chia lửa” cho tình trạng quá tải tại các bệnh viện do thiếu thốn cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế thì việc xã hội hoá, liên doanh liên kết, đặt máy và mượn máy là một giải pháp.
Thống kê của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, 59 tỉnh, thành đã thực hiện lắp đặt hơn 3.400 máy y tế “xã hội hóa”. Nhưng gần đây, Bộ Tài chính liên tiếp có công văn gửi Bộ Y tế đề nghị các đơn vị khám chữa bệnh không mượn máy hoặc cho phép máy đặt trong viện. Không phải ngẫu nhiên mà đơn vị quản lý tài chính đưa ra yêu cầu này. Tuy nhiên, động thái này khiến người bệnh, các cơ sở y tế và cả nhân viên y tế “tiến thoái lưỡng nan”.
Phóng viên phỏng vấn bà Phạm Khánh Phong Lan, Đại biểu Quốc hội, nguyên Phó Giám đốc Sở Y tế TP.HCM, về những kiến nghị, đề xuất cho việc đặt, mượn máy tại hệ thống bệnh viện công lập.
- Thưa bà, sau một thời gian dài thực hiện, theo bà, mặt tích cực của mô hình xã hội hóa và liên doanh liên kết đặt máy, gửi máy tại các bệnh viện công được thể hiện như thế nào?
Tôi nghĩ ai cũng thấy được lợi ích lớn nhất chính là cho người bệnh. Trên thực tế kinh phí chúng ta đầu tư cho ngành y tế còn rất hạn chế, chưa kể là với những thủ tục; chủ trương cấp kinh phí, dự trù kinh phí để thành lập đề án cho đến lúc tiến hành đấu thầu và mua được máy có thể kéo dài hàng năm trời. Nếu làm một thống kê thì số lượng máy móc, trang thiết bị được các bệnh viện mua bằng tiền ngân sách hoặc tự chủ bệnh viện chỉ đếm trên đầu ngón tay trong khi bây giờ hơn 90% là máy xã hội hóa.
Bà Phạm Khánh Phong Lan.
- Có thể nói việc liên doanh liên kết cũng như hợp tác đặt máy và cho mượn máy tại các bệnh viện công đã góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh nói chung, nhưng theo bà, vì sao Bộ Tài chính liên tiếp có công văn yêu cầu không thực hiện máy mượn hoặc cho phép máy đặt trong bệnh viện công lập?
Khi nhìn một sự vật hiện tượng, tôi nghĩ cần phải nhìn nhiều chiều. Việc liên doanh liên kết đặt máy mang lại hiệu quả rất lớn trong việc nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh. Nhưng đi kèm theo nó là những rủi ro về pháp lý, và đúng như Bộ Tài chính nói là hình thức này chưa được quy định trong pháp luật.
Nhưng điều tôi không thống nhất với Bộ Tài chính là cách giải quyết. Nếu chưa có trong luật, thì hãy tổng kết đánh giá và đưa vào trong luật. Bây giờ chúng ta phải cho nó một cơ sở pháp lý, bởi mục tiêu cao nhất của chúng ta là phục vụ người bệnh.
Một điều băn khoăn nữa là nếu Bộ Tài chính đề nghị các đơn vị khám, chữa bệnh không mượn máy hoặc cho phép đặt máy trong viện thì liệu Nhà nước có bảo đảm là sẽ trang bị đủ và kịp thời máy móc; trang thiết bị cho bệnh viện đủ đáp ứng được yêu cầu của bệnh nhân hay không? Và đương nhiên nếu như chúng ta cấm trong hệ thống công lập thì sự việc cũng sẽ tái diễn giống như tình trạng thuốc hiện nay.
Video đang HOT
Hệ thống máy đặt, máy mượn từ các công ty trúng thầu hóa chất hoạt động hiệu quả tại Bệnh viện Chợ Rẫy (TP.HCM).
- Theo bà, điều gì đang cản trở sự quản lý minh bạch các thiết bị xã hội hóa và dịch vụ xã hội hóa?
Theo quan điểm của tôi, chúng ta đang ở một tình thế mà tất cả đều mang tính tương đối. Tôi chọn làm sao để phục vụ cho bệnh nhân được nhiều nhất và đương nhiên tiêu cực tới đâu thì chúng ta là đó xử lý tới đó, nhưng phải có một nền pháp lý rõ ràng.
Còn bây giờ các bệnh viện hầu như ngưng trệ, mua máy mới thì không dám; máy đáng sử dụng thì cũng phập phù không biết tới ngày nào bởi bảo hiểm y tế “khóa van” chi trả đối với bệnh nhân.
- Vậy bà bình luận như thế nào về việc Bộ Y tế, Bảo hiểm Y tế và Bộ Tài chính đẩy “quả bóng” trách nhiệm trong việc tiến hành xem xét, chấn chỉnh lại các liên doanh liên kết và cho mượn máy?
Từ Bộ Y tế cho tới Bảo hiểm cho tới Bộ Tài chính không thấy bộ nào phân tích đánh giá một cách tổng hợp để thấy được là hơn 90% số bệnh viện của chúng ta đang sử dụng máy đặt.
Bây giờ, cứ hết Bộ này, Bộ kia quản không được nhưng mà chỉ đưa ra được những lý giải để trốn tránh trách nhiệm. Bộ Tài chính trả lời không có trong luật. Vậy tại sao hàng chục năm nay hình thức mượn máy, cho phép đặt máy trong bệnh viện vẫn hiện hữu? Nếu trái pháp luật thì tại sao Bộ Tài chính không cảnh báo, không cấm ngay từ đầu.
Còn bây giờ đã cho các đơn vị thí điểm thì anh phải có tổng kết đánh giá, phải kết luận giữa mặt lợi mặt hại, cái nào quan trọng hơn thì chúng ta phải là tiến hành làm. Không phải tự nhiên mà tất cả bệnh viện với một cơ chế như nhau, nhưng có bệnh viện thì lại được nhiều bệnh nhân tín nhiệm. Bởi vì ở đấy không những có bác sĩ giỏi mà còn phải có máy móc trang thiết bị hiện đại và có thuốc tốt.
Tôi không thống nhất với Bộ Tài chính về cách giải quyết. Nếu chưa có trong luật, thì hãy tổng kết đánh giá và đưa vào trong luật. Bây giờ chúng ta phải cho nó một cơ sở pháp lý, bởi mục tiêu cao nhất của chúng ta là phục vụ người bệnh..
- Trong giai đoạn này theo bà thì Bộ Y tế cũng như Bộ Tài chính cần có hướng giải quyết như thế nào để không ảnh hưởng tới quyền lợi của người bệnh bởi trên thực tế thì sự ảnh hưởng này đã và đang xảy ra ở nhiều cơ sở y tế?
Lãnh đạo Bộ Y tế, lãnh đạo Bộ Tài chính thử đặt mình vào vị trí người bệnh đi đến khám chữa bệnh và nhận được thông báo bây giờ muốn xét nghiệm phải đi ra ngoài mà làm; phải tự bỏ tiền túi, thậm chí trả tiền cao gấp mấy lần. Đây chính là hệ lụy nếu chúng ta tiến hành theo yêu cầu của Bộ Tài chính.
Thêm nữa các bệnh viện từ trước tới giờ vẫn phải chạy đua với quá tải, nếu bây giờ bị ngưng trệ vì những quy định của Bộ Tài chính, Bảo hiểm y tế thì tôi nghĩ sau này chúng ta sẽ phải trả giá.
Tôi nhớ cách đây nhiều năm, tại kỳ họp Quốc hội khóa 13, các đồng chí trong Ban kinh tế Trung ương cũng hết sức quan tâm đến vấn đề này nhưng tới bây giờ vẫn trôi về đâu rồi.
Ngân sách phân bổ cho y tế đã nâng từ 6,3% lên gần 7,2% (tính đến năm 2020) nhưng nhiều cơ sở y tế còn lạc hậu, thiếu thốn… và phải chi cho y tế dự phòng hơn 20%, ưu tiên cho các vùng sâu vùng xa, cũng như dàn trải cho hơn 60 tỉnh thành. Để “chia lửa” cho tình trạng quá tải tại các bệnh viện do thiếu thốn cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế thì việc xã hội hóa, liên doanh liên kết, đặt máy và mượn máy là một giải pháp
- Theo bà nếu duy trì cơ chế máy đặt, máy mượn trong bệnh viện thì mô hình này nên thực hiện theo hình thức nào cho phù hợp?
Thực ra, các hình thức nào đấy chỉ là cái tên gọi thôi. Nhưng chúng ta cần chính thức hóa trong luật để có những ràng buộc nhất định.
Tôi khẳng định, với tình hình ngân sách chúng ta chưa thể đáp ứng được nhu cầu mua sắm trang thiết bị của các bệnh viện và dù cho có đáp ứng được thì cũng phải mất thời gian cho tất cả thủ tục đấu thầu, lập dự án chưa kể khi chúng ta mua một cái máy sẽ kèm theo chi phí bảo trì, bảo dưỡng rồi thì khấu hao…. một hồi thì nó cũng giống như một doanh nghiệp thôi. Ta hãy tính toán xem là con đường nào có lợi nhất, số tiền chúng ta chi ra thấp nhất nhưng lo được cho bệnh nhân nhiều nhất.
- Có cần một cơ quan quản lý Nhà nước đóng vai trò trung gian để giám sát mối quan hệ này giữa tư nhân vào bệnh viện công không, thưa bà?
Tôi không có ý định là đặt thêm một cơ quan gì nữa. Tôi nghĩ chúng ta có quá đủ rồi là khác. Vấn đề có chịu làm hay không thôi.
- Xin trân trọng cảm ơn bà!
Diễn đàn Kinh tế Việt Nam năm 2021: Tạo động lực tăng trưởng cho vùng, 'cởi trói' cho doanh nghiệp
Ngày 5/12, Diễn đàn kinh tế Việt Nam năm 2021 với chủ đề "Phục hồi và phát triển bền vững" do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Ban Kinh tế Trung ương, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam tổ chức.
Quang cảnh diễn đàn. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Chia sẻ với phóng viên Thông tấn xã Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, các đại biểu, chuyên gia và doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh đánh giá cao chủ đề "Phục hồi và phát triển bền vững" của Diễn đàn kinh tế Việt Nam năm 2021 cũng như đề xuất nhiều giải pháp cụ thể trong việc khôi phục và phát triển kinh tế thời gian tới.
Trao đổi bên lề Diễn đàn, đại biểu Quốc hội Trần Hoàng Ngân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: Diễn đàn được tổ chức là cơ hội, điều kiện để các đại biểu lắng nghe ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, các tổ chức tài chính trong các vấn đề liên quan đến chính sách kinh tế, thể chế, gói hỗ trợ phục hồi - phát triển kinh tế dự kiến sẽ được thảo luận tại Kỳ họp Quốc hội tới.
Ông Trần Hoàng Ngân nhận định: Đại dịch COVID-19 đã tác động hết sức nặng nề, nghiêm trọng đến toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng trên nhiều mặt, cả kinh tế, xã hội, sức khỏe và tính mạng con người. Về kinh tế, dịch COVID-19 đã gây ra tổn thất chưa từng có, khiến tăng trưởng kinh tế Việt Nam đang đặt mức bình quân 7% năm (2018 -2019) giảm xuống 2,91% trong năm 2020 và năm 2021 có thể chỉ tăng trưởng khoảng 2%. Nhưng nặng nề nhất là dịch bệnh đã cướp đi sinh mạng của người dân Việt Nam với con số tử vong hàng chục nghìn người, trong đó 70% là tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Diễn biến của dịch vẫn sẽ tiếp tục phức tạp, khi trong tuần qua, số ca nhiễm tiếp tục tăng, đặc biệt là số ca tử vong vẫn cao, đe dọa đến khả năng phục hồi và phát triển kinh tế của nước ta trong thời gian tới. Chính vì vậy, rất cần gói hỗ trợ phục hồi - phát triển kinh tế có quy mô đủ lớn, thời gian đủ dài, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.
Đại biểu Quốc hội Trần Hoàng Ngân. Ảnh: Viết Tôn/Báo Tin tức
Theo ông Trần Hoàng Ngân, cuộc khủng hoảng hiện nay xuất phát từ vấn đề y tế, do đó gói hỗ trợ phục hồi - phát triển mới phải đủ lớn để nâng cao được năng lực y tế từ cơ sở vật chất, trang thiết bị, vaccine, thuốc điều trị... và cả cơ chế tài chính, thu nhập của lực lượng y bác sỹ phục vụ tuyến đầu. Bên cạnh đó, gói hỗ trợ phải đủ rộng để tất cả các đối tượng yếu thế, người bị ảnh hưởng đều tiếp cận được.
Đối với kinh tế, Nhà nước cần gia tăng đầu tư vào các lĩnh vực có nhiều đối tượng được thụ hưởng như giao thông, hạ tầng số, hạ tầng viễn thông, kinh tế số và có tác động dài hạn như các lĩnh vực đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ cao để tăng năng suất lao động trong giai đoạn tới. Tuy nhiên, không có nghĩa là đầu tư dàn trải mà phải chú ý đến động lực tăng trưởng. Đông Nam Bộ vốn chiếm tới 40% tổng thu ngân sách, riêng Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 27% lại chính là vùng bị ảnh hưởng nặng nề nhất và cần có gói hỗ trợ để khôi phục lại động lực tăng trưởng. Cụ thể, cần đẩy nhanh tiến độ đầu tư đường Vành đai 3 kết nối Bình Dương, Đồng Nai, Long An, Bà Rịa-Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh, tạo động lực tăng trưởng cho vùng, khôi phục sự đứt gãy chuỗi hàng hóa, giảm chi phí logistics.
Ngoài ra, cần tính đến gói hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi "cơn bão COVID-19" như hỗ trợ lãi suất, tiếp cận vốn, về bảo lãnh tín dụng, giúp hộ kinh doanh, hợp tác xã, doanh nghiệp khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh; có chính sách hỗ trợ đến các "vườn ươm" sáng tạo, khởi nghiệp để tạo nên đà phát triển toàn diện hơn cho đời sống kinh tế.
Trao đổi về các nội dung liên quan đến chủ đề của diễn đàn, Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành phân tích: Năm 2021, kinh tế Việt Nam có nhiều cơ hội để tăng trưởng kinh tế so với năm 2020. Tuy nhiên, đợt bùng phát dịch COVID-19 lần thứ 4 tại các tỉnh thành phía Nam mà Thành phố Hồ Chí Minh là "điểm nóng" nhất đã "vô hiệu hóa" hầu hết các cơ hội tăng trưởng mà doanh nghiệp đang có.
Việc bắt buộc phải áp dụng chính sách chống dịch nghiêm ngặt như cách ly tập trung, phong tỏa vùng đỏ, chốt chặn bảo vệ vùng xanh... gây nhiều khó khăn cho sản xuất và lưu thông hàng hoá trong nước. Các nguồn lực của doanh nghiệp bị đóng băng, không thể lưu thông, thậm chí bị bào mòn do chi phí cố định vẫn phải chi, thậm chí tăng thêm để đáp ứng quy định phòng, chống dịch trong khi doanh thu giảm mạnh hoặc bằng không. Những doanh nghiệp có chi phí cố định lớn và vay ngân hàng càng nhiều thì rủi ro càng cao.
Theo Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền, việc "lệch pha" trong chiến lược "Zero COVID-19" khi thế giới đã chuyển sang thích ứng để phục hồi khiến kinh tế Việt Nam trong quý III/2021 suy giảm nghiêm trọng chưa từng có. Rất may, Chính phủ và các Bộ, ngành đã điều chỉnh chiến lược ứng phó với dịch COVID-19 theo phương châm "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19". Ngay khi được "cởi trói", các doanh nghiệp đã nhanh chóng khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự lưu thông hàng hóa trong nước cũng như tận dụng cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu dịp cuối năm. Nhờ đó, kinh tế quý IV/2021 sẽ khởi sắc và bù đắp phần nào những tổn thất trước đó.
Theo Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền, việc khôi phục kinh tế phụ thuộc vào chính sách ứng phó với dịch bệnh. Khi Nhà nước đã xác định thích ứng, chung sống an toàn, tạo điều kiện để các nguồn lực, dòng vốn của doanh nghiệp được lưu thông thì kinh tế sẽ nhanh chóng phát triển theo quy luật thị trường. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn thời gian qua đã đi đúng hướng và từng bước phát huy được hiệu quả. Điển hình như chính sách giãn nợ, khoanh nợ, không để doanh nghiệp rơi vào nhóm "nợ xấu"; hỗ trợ về chi trả tiền lương, bảo hiểm xã hội giúp doanh nghiệp giảm bớt phần nào áp lực về tài chính.
Về chiến lược phục hồi và phát triển bền vững kinh tế thời gian tới, Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền khuyến nghị cần đẩy mạnh đầu tư công bởi việc thực hiện các dự án đầu tư công sẽ giúp tạo công ăn việc làm cho doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào các gói thầu phụ. Đầu tư công cũng kích cầu, thu hút đầu tư từ doanh nghiệp vào các lĩnh vực khác, thúc đẩy chi tiêu của xã hội.
Song song đó, Nhà nước cần mở rộng nguồn vốn tín dụng cho doanh nghiệp tiếp cận phục vụ sản xuất. Tuy nhiên cần có giải pháp để hướng dòng vốn vào hoạt động sản xuất thay vì đầu tư chứng khoán hay bất động sản dễ dẫn đến tình trạng đầu cơ, tăng trưởng nóng nhưng không tạo ra hàng hóa cho xã hội. Trong bối cảnh dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp, để đảm bảo môi trường cho kinh tế khôi phục, cần tiếp tục phủ nhanh vaccine cho toàn bộ người dân, duy trì và phát huy hiệu quả chăm sóc sức khỏe người dân của hệ thống y tế lưu động để giảm số ca tử vong xuống mức tối thiểu; nâng cao ý thức phòng, chống dịch của người dân để có thể sống chung an toàn.
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Đỗ Phước Tống, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Cơ khí - Điện Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: Hiện nay tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn thành phố cơ bản phục hồi khá tốt. Riêng các doanh nghiệp trong ngành cơ khí - điện đã phục hồi trên 90% công suất hoạt động; thậm chí, có doanh nghiệp đạt trên 100% để đáp ứng nhu cầu tăng mạnh của khách hàng trong dịp cuối năm. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 được ban hành trong thời gian qua cũng đã phần nào trợ giúp các doanh nghiệp hồi phục nhanh hơn, nhưng thực sự vẫn chưa phát huy hiệu quả như mong đợi.
"Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi hiện nay có rất nhiều rồi, vấn đề nằm ở chỗ hiệu quả thực thi chính sách. Doanh nghiệp mong muốn thời gian tới các Bộ, ngành liên quan có giải pháp hiệu quả hơn trong việc đơn giản hoá các thủ tục hành chính để doanh nghiệp tiếp cận chính sách dễ hơn, phù hợp hơn với từng nhóm đối tượng doanh nghiệp", ông Đỗ Phước Tống chia sẻ.
Tạo hành lang pháp lý đủ mạnh để xử lý nợ chuyên nghiệp Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng: Việt Nam cần nhanh chóng đồng bộ hệ thống luật và các văn bản dưới luật, tạo hành lang pháp lý đủ mạnh để hướng tới việc xử lý nợ chuyên nghiệp, góp phần nâng cao mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hoàn thiện pháp lý về nợ xấu...