Tiến sĩ Huỳnh Thế Du: Cơ chế trả lương Đại học Tôn Đức Thắng cần được biểu dương
Với cách làm của Trường Đại học Tôn Đức Thắng, thu nhập của các vị trí tương xứng với công sức của mỗi cá nhân bỏ ra và họ đóng thuế đầy đủ.
LTS: Cơ chế trả lương theo khối lượng, hiệu quả và chất lượng công việc của Trường Đại học Tôn Đức Thắng đang được dư luận đặc biệt quan tâm, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với ông Huỳnh Thế Du- giảng viên Trường chính sách công và quản lý Fulbright, hiện đang là học giả nghiên cứu tại Đại học Indiana Hoa Kỳ ngõ hầu góp thêm tiếng nói giúp quý bạn đọc hiểu rõ hơn vấn đề này.
Phóng viên: Là người nghiên cứu về động cơ, những nhân tố tác động đến động lực làm việc và cách hành xử của những người làm việc trong khu vực công, theo dõi những ngày qua trên các phương tiện thông tin đại chúng ông đánh giá như thế nào về cơ chế tiền lương và phân bổ thu thu nhập của Trường Đại học Tôn Đức Thắng?
Tiến sĩ Huỳnh Thế Du: Tôi thấy rằng cơ chế tiền lương và phân bổ thu nhập của Trường Đại học Tôn Đức Thắng chính là chìa khoá hay cách thức giải quyết bài toán mà Việt Nam đã đau đầu trong nhiều năm qua.
Lương không đủ sống mà ai cũng sống được phản ánh thực trạng của Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển khác: cái phần giúp nhiều người làm trong khu vực công sống được đó chính là tiêu cực và tham nhũng. Nói thẳng ra đây là sự xấu xa cần loại bỏ. Chúng đã và đang làm băng hoại đạo đức xã hội, gây ra tình trạng bất công, giảm sút niềm tin của công chúng.
Tiến sĩ Huỳnh Thế Du (Ảnh: fsppm.fulbright.edu.vn)
Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (20 – 25/1/1994), Đảng đã xác định tham nhũng là 1 trong 4 nguy cơ đối với đất nước. Nghị quyết Đại hội XII đánh giá, bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp.
Chiến dịch chống tham nhũng hiện tại có lẽ đã ngăn chặn được việc Việt Nam có khả năng rơi vào vết xe đổ của một số nước mà tham nhũng làm tan rã các chế độ, đẩy lùi sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, giải pháp căn cơ vẫn phải là đưa những thu nhập không chính thức trở thành chính thức.
Con voi lù lù giữa phòng mà ai cũng thấy là thu nhập của không ít những người làm ở các đại học, nhất là những người có vị trí, lớn hơn rất nhiều tiền lương chính thức của họ (có thể còn cao hơn đáng kể so với tổng mức thu nhập được công bố của ông Lê Vinh Danh).
Có ai đảm bảo đó là những khoản thu nhập do công sức của những người đó đóng góp cho sự phát triển của nhà trường hay nhờ vị trí, chức vụ của họ? Hơn thế, thường thì những khoản thu nhập như vậy là không đóng đủ thuế thu nhập.
Trái lại, với cách làm của Trường Đại học Tôn Đức Thắng, thu nhập của các vị trí tương xứng với công sức của mỗi cá nhân bỏ ra và họ đóng thuế đầy đủ. Họ đã thiết kế ra được cơ chế mà những ai có khả năng là có thể phát huy và sống khỏe bằng chuyên môn và năng lực của mình. Với mức thu nhập dựa vào chuyên môn đủ sống như vậy thì giá trị và nhân cách của các thầy cô được đảm bảo hơn vì họ không phải lo “mánh mung”.
Ông Lê Vinh Danh và các đồng sự của mình đã có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực được giao, tận dụng được các cơ hội để biến một trường đại học rất ít được biết đến thành một trường có tên tuổi, với cơ sở vật chất và thực lực có thể cạnh tranh sòng phẳng với những “cây đa cây đề” trong ngành giáo dục Việt Nam đã và đang được ưu ái rất nhiều về ngân sách và các nguồn lực khác.
Trong một cơ chế với vô số bất cập, việc sai sót của những người, những nơi tìm cách thoát ra khỏi cái áo cơ chế chật chội thúc đẩy sự phát triển của xã hội là điều khó tránh khỏi. Hơn thế, không mô hình nào có thể thỏa mãn tất cả mọi người. Do vậy, việc có tiếng ra, tiếng vào là điều khó tránh.
Cách nhìn hợp lý vì sự tiến bộ của xã hội là tổng lợi ích và giá trị mà cá nhân/đơn vị đấy mang lại cho xã hội chứ không phải là vạch lá tìm sâu.
Do vậy, những người thực tâm muốn chống tham nhũng, thúc đẩy sự phát triển của đất nước thì cần phải tìm cách đưa cái cơ chế hết sức bất cập đang vận hành ở không ít trường công hiện nay sang cơ chế tương tự như Trường Đại học Tôn Đức Thắng và cần phải biểu dương mô hình này chứ không phải tìm cách đánh sập nó.
Tôi xin nhắc lại rằng những người dám bước vào các “vùng xám” của các quy định hay cơ chế hiện hữu để tìm những cách thức thúc đẩy sự phát triển của xã hội, giải quyết những yêu cầu của cuộc sống thì cần được biểu dương và khuyến khích. Vùng xám, nếu lý giải các quy định theo kiểu trắng – đen thì bới bèo nào chẳng ra bọ. Tuy nhiên, chúng ta cần phải nhận thức rất rõ đó là những việc có ích cho xã hội.
Do vậy, khi phát hiện ra những điều chưa hợp lý, chưa đúng quy định thì tìm cách giải quyết để khuyến khích tinh thần dám nghĩ dám làm chứ không phải làm thui chột nó. Nó không chỉ tác động đến một số cá nhân hay đơn vị cụ thể mà là tất cả những người có ý nghĩ dấn thân. Nếu để xảy ra tình trạng số đông tặc lưỡi rằng “làm tốt mà bị đánh tơi tả như vậy thì làm làm gì?”
Video đang HOT
Theo như ông nói thì cần phải biểu dương cơ chế “trả lương” như Trường Đại học Tôn Đức Thắng. Vậy ông nhìn nhận vấn đề đang xảy ra như thế nào?
Tiến sĩ Huỳnh Thế Du: Là người rất quan tâm đến các mô hình thúc đẩy sự phát triển của xã hội, giải quyết những bài toán hóc búa, tôi đã rất kỳ vọng rằng Trường Đại học Tôn Đức Thắng sẽ được tìm hiểu để giải bài toán cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế hiện nay quả là cám cảnh và thất vọng khi phải thấy điều ngược lại.
Singapore đã hoá rồng dựa vào tài năng của con người như phát biểu của ông Lý Quang Diệu sau đây:
“ Chúng tôi không đưa Singapore từ thế giới thứ ba lên thế giới thứ nhất bằng việc săn lùng những vị bộ trưởng sẵn sàng hy sinh tương lai con cái của mình khi phải gánh vác nhiệm vụ phục vụ công chúng.
Chúng tôi có một quá trình rất thực dụng, không đòi hỏi người có năng lực phải từ bỏ quá nhiều từ cộng đồng.
Chúng tôi không hạ thấp Singapore thành một quốc gia bình thường khác ở thế giới thứ ba bằng việc né tránh vấn đề trả lương cho các bộ trưởng với mức lương cạnh tranh.”
Việt Nam chúng ta cần phải tìm cơ chế như Singapore đã làm và Đại học Tôn Đức Thắng là một ví dụ hay hình mẫu cụ thể đã làm được điều này. Những kết quả đạt được của họ cho thấy rất rõ.
Xin ông chia sẻ thêm về quan điểm của mình đối với các phương thức làm việc và cơ chế thu nhập trong khu vực công đối với sự phát triển, tiến bộ xã hội?
Tiến sĩ Huỳnh Thế Du: Theo tôi, những người trong khu vực công về cơ bản có thể chia làm ba nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất năng động, sáng tạo biết sử dụng các nguồn lực trong tay và tận dụng được mọi cơ hội trong khả năng để đưa địa phương hay đơn bị mình đi lên. Kết quả nhiều người được hưởng lợi từ sự phát triển này, xã hội tốt lên.
Thành quả mang lại thì ai cũng có nhu cầu được hưởng. Có thể có một ai đó tuyệt đối trong sạch không muốn tơ hào hay chút mảy may nghĩ cho lợi ích bản thân, nhưng đâu thể làm ngơ với nhu cầu có cuộc sống đầy đủ hơn của cộng sự và người thân. Đó là đòi hỏi nhu cầu và chính đáng mà!.
Do vậy, việc tạo ra các cơ chế không có trong quy định hoặc vận dụng các quy định để những người tạo ra các thành quả cũng có phần tương xứng và hợp lý là điều xảy ra gần như khắp mọi nơi.
Tuy nhiên, nếu xét theo lý trắng đen như tôi đã nói ở trên thì các cơ chế này khó mà đúng quy định hoàn toàn. Nếu bắt bẻ theo kiểu không đúng là sai thì thua.
Nhóm thứ hai chỉ tuân thủ các quy định cứng, không có động cơ năng động sáng tạo, cứ để các nguồn lực không được sử dụng hiệu quả (thực ra là lãng phí), cốt giữ mình yên bình trong một tình hình luật lệ còn rất bất cập và do đó rất dễ vướng rủi ro. Từ đó, địa phương hay đơn vị không phát triển. Đời sống người dân hay đội ngũ nhân sự vẫn khó khăn, luôn phải ngửa tay đi xin sự hỗ trợ của cấp trên.
Nhóm thứ ba chỉ lo vun vén cho lợi ích cá nhân và phe nhóm của mình. Họ luôn tìm cách ăn không chừa một thứ gì với đủ mọi thủ đoạn, kể cà bước qua luật lệ vì họ có cả nhóm quyền lực cùng chia và cùng bảo vệ nhau. Điều đáng lên án là những người này nhân danh đủ thứ để hại và cướp công của những người thuộc nhóm thứ nhất.
Trong ba nhóm trên, để thúc đẩy tiến triển của xã hội thì nhóm thứ nhất nên được nuôi dưỡng và khuyến khích, nhóm thứ hai cần giảm thiểu và nhóm thứ ba phải loại bỏ.
Tiếc là trong không ít trường hợp, do sự ràng buộc của cơ chế và các quy định trong khu vực công mà những người làm tốt lại bị phạt và tiểu nhân đắc ý; mà nhiều người muốn cứu người làm tốt và vạch mặt những kẻ tiểu nhân cũng không được. Muốn làm được điều này, thì điều kiện cần là phải có sự tỉnh táo và thông thái của cả xã hội.
Khi dư luận chung ủng hộ người làm tốt, nói không và vạch mặt những kẻ làm sai trái thì những người đưa ra quyết định sẽ dễ hơn. Trái lại, nếu sự cảm tính của số đông bị thổi phồng bởi một vài thông tin hay con số bị giật dây, không phản ánh đúng sự thật thì sẽ rất khó.
Chính điều này lại dung dưỡng cho những điều vô lý và bất công trong xã hội.
Trân trọng cảm ơn ông!
Theo lý giải của Trường Đại học Tôn Đức Thắng, con số 556 triệu đồng thu nhập của Hiệu trưởng Lê Vinh Danh không phải thu nhập theo tháng, mà là cộng gộp.
Cụ thể, trong thời gian dịch bệnh Covid-19 diễn ra, Trường Đại học Tôn Đức Thắng cũng gặp khó khăn trong tài chính. Để chia sẻ khó khăn này, nhiều giảng viên, viên chức đã tự nguyện nhận lương ít hơn trong các tháng 3 và 4/2020, phần còn lại cho phép Nhà trường chậm trả. Trong đó có thầy Danh tự nguyện chậm trả 60% thu nhập/tháng, Chủ tịch Công đoàn trường tự nguyện chậm trả 100%.
Khi tình hình dịch bệnh được kiểm soát ổn định, tình hình tài chính của Nhà trường dần quay về bình thường, Nhà trường thực hiện việc hoàn trả lại khoản thu nhập đó cho giảng viên, viên chức. Do số tiền mà giảng viên, viên chức tự nguyện cho Trường Đại học Tôn Đức Thắng chậm trả khá lớn, nên không thể thanh toán một lần, mà tiến hành trả chia nhỏ ra trong ba tháng 6, 7 và 8/2020.
Như vậy, trong ba tháng này, ngoài tổng thu nhập bình thường/tháng của giảng viên, viên chức, họ còn được nhận lại một phần thu nhập của tháng 3 và 4/2020 của họ. Mọi người đều có bảng thu nhập cao hơn các tháng khác.
9 vấn đề làm nên thành tích vượt bậc của Đại học Tôn Đức Thắng
Đóng góp lớn nhất cho sự phát triển của Trường trước hết là thầy Hiệu trưởng. Thầy là người có năng lực, có tài, có tâm huyết, được đào tạo ở trong và ngoài nước.
LTS: Tiến sĩ Nguyên Văn Quán hiện đang là chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo - Khoa môi trường và Bảo hộ lao động của Đại học Tôn Đức Thắng, nguyên trưởng khoa Môi trường và bảo hộ lao động, nguyên Phó viện trưởng viện nghiên cứu bảo hộ lao động, Phân viện trưởng phân viện Bảo hộ lao động miền Nam và từng là Giám đốc Trung tâm an toàn lao động và công nghệ môi trường có bài viết gửi tới tòa soạn Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam để chia sẻ một số thành tựu về tự chủ của ngôi trường mang tên Bác Tôn mà ông đã có cơ hội gắn bó rất lâu năm.
Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Tôi đã tham gia làm việc tại Trường Đại học Tôn Đức Thắng ngay từ khi thành lập năm 1997. Chứng kiến sự chuyển đổi của Trường từ trường đại học công nghệ dân lập chuyển sang bán công rồi chuyển sang công lập cho đến ngày hôm nay nên tôi hiểu được sự trưởng thành của ngôi trường này như thế nào?
Như Khổng Tử đã nói: "Nghe thì tôi quên, thấy thì tôi nhớ, làm thì tôi hiểu", còn đối với tôi hơn 23 năm liên tục gắn bó làm việc ở trường Đại học Tôn Đức Thắng thì nghe nhiều làm sao quên được, thấy nhiều lại càng nhớ, càng yêu ngôi trường, còn làm nhiều và vất vả thì càng hiểu và thấy có ý nghĩa hơn.
Trường Đại học Tôn Đức Thắng (ảnh: TDT)
Trước tiên, tôi phải nói để có được Trường Đại học Tôn Đức Thắng như ngày hôm nay đó là sự đóng góp to lớn cùng nhau vượt qua mọi khó khăn của Thầy hiệu trưởng và các thầy cô, các cán bộ nhân viên, các bậc phụ huynh, doanh nghiệp, các cựu sinh viên, các học viên và toàn thể các bạn sinh viên yêu quý.
Đóng góp lớn nhất cho sự phát triển của Trường trước hết là thầy Hiệu trưởng. Thầy là người có năng lực, có tài, có tâm huyết, được đào tạo ở trong và ngoài nước.
Thầy từng là giảng viên, là phó hiệu trưởng giai đoạn dân lập, bán công và là hiệu trưởng đầu tiên của Trường trong giai đoạn công lập.
Khi nhận nhiệm vụ hiệu trưởng trường đại học Tôn Đức Thắng, thầy Lê Vinh Danh đã từng bước lãnh đạo nhà trường sau 12 năm đạt được thành tích đáng trân trọng như ngày hôm nay.
Thật vậy, với một trường có xuất phát điểm rất thấp, phải tự chủ từ đầu (thực ra là tự lo toàn diện), thầy đã đề ra kế hoạch 30 năm trường phấn đấu vào TOP 60 Châu Á và nay đã được xếp hạng TOP 800 thế giới thật đáng tự hào.
Để có được những thành tích đó có nhiều nguyên nhân mà thể hiện rõ nhất ở 9 vấn đề sau:
Vấn đề thứ nhất: ngay từ đầu thầy Hiệu trưởng đã chọn hướng đi cho trường là trở thành đại học nghiên cứu. Thầy đã trình bày cho tập thể giảng viên, viên chức hiểu rằng giảng dạy không thể thiếu nghiên cứu, nó bổ sung và hỗ trợ nhau cùng phát triển và đó là xu hướng tất yếu của các đại học trên thế giới.
Lúc đầu nhiều giảng viên, viên chức không tin có thể thực hiện được mục tiêu phát triển thành trường đại học nghiên cứu, nhưng sau khi thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 2 thì chúng tôi tin rằng chúng tôi sẽ thành công. Vì vậy, mọi hoạt động của trường đều hướng tới mục tiêu này.
Vấn đề thứ 2: Hiệu trưởng đề nghị thực hiện là mọi hoạt động và mọi nỗ lực chỉ hướng tới giáo dục, đào tạo làm sao để đạt được kết quả có chất lượng; người được đào tạo tại trường có đức, có tài; không vì lợi nhuận cho riêng ai, kể cả dùng cho việc khác. Nguyên tắc này chính là cơ sở cho mọi người phấn đấu, an tâm, đoàn kết và hết lòng vì sự phát triển của Trường.
Vấn đề thứ 3: Xây dựng cơ sở đào tạo ở Tân Phong, Quận 7 do Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giao đất, hướng phát triển của trường, mục đích có vị thế xứng đáng trong các trường ở khu vực là niềm tin của sinh viên, học viên mong muốn được học tại trường; là niềm tin đối với các đối tác trong và ngoài nước hợp tác nghiên cứu đào tạo, của phụ huynh.
Vấn đề thứ 4: các nội dung hoạt động của trường được thầy Hiệu trưởng quan tâm vì nó có tầm quan trọng đến chất lượng đào tạo con người có tài, có đức cho xã hội.
Thầy hiệu trưởng đã chỉ đạo nghiên cứu nghiêm túc, công phu, có quy định cụ thể, rõ ràng cho toàn trường, và lộ trình riêng cho từng khoa, phòng, ban; cho giảng viên viên chức, học viên và sinh viên, các hoạt động đi vào chiều sâu, không hình thức.
Vấn đề thứ 5: Thực hiện rà soát, kiểm tra để hoàn chỉnh các chương trình đào tạo, giáo trình, nội dung giảng dạy kể cả ngành đào tạo mới. Khẳng định và yêu cầu giảng viên phải tự nguyện có trách nhiệm xem đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu cho chất lượng đào tạo con người có đức có tài.
Thực hiện nghiên cứu và thu thập thông tin, tài liệu của các trường có uy tín trong và ngoài nước sao cho đáp ứng được nhu cầu hiện tại, có chất lượng cao để phục vụ mục tiêu phát triển nhà trường.
Vấn đề thứ 6: Quy hoạch và kế hoạch xây dựng đội ngũ giảng viên có chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát triển thành trường đại học nghiên cứu để giúp cho các giảng viên có chuyên môn, học vị khoa học theo yêu cầu, trường luôn tạo điều kiện thuận lợi, kể cả hỗ trợ kinh phí.
Những giảng viên có trình độ ngoại ngữ thuận lợi trong giao tiếp tham gia hội thảo, hội nghị quốc tế, tham gia các chương trình trao đổi giảng viên với các nước.
Vấn đề thứ 7: đánh giá tầm quan trọng của hợp tác quốc tế, xây dựng khoa học và thực hiện ngay từ đầu, hợp tác với các trường nước ngoài đào tạo chương trình liên kết, chương trình luân chuyển campus, trao đổi kinh nghiệm, hợp tác nghiên cứu
Vấn đề thứ 8: nghiên cứu khoa học đặt lên hàng đầu để xứng tầm với mục tiêu là trường đại học nghiên cứu. Hiệu trưởng xác định đây là nhiệm vụ khó khăn và nặng nề, đòi hỏi sự cố gắng, đồng lòng quyết tâm vượt qua khó khăn.
Nếu xét nguồn lực giảng viên trường giai đoạn đầu là tiếp nối từ trường đại học công nghệ dân lập, đại học bán công thì chưa thể gánh vác nhiệm vụ này ngay được nên Thầy Hiệu trưởng đã đưa 2 vấn đề phải làm song song đó là quy hoạch và kế hoạch xây dựng đội ngũ giảng viên (vấn đề thứ 6) và có cách tiếp cận hợp lý thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu ngay từ đầy: yêu cầu giảng viên, nghiên cứu viên tìm đăng ký đề tài nghiên cứu các cấp:
Từ cấp trường, cấp sở và thành phố, cấp tỉnh đến cấp bộ, động viên giảng viên hướng dẫn sinh viên thực hiện đề tài nghiên cứu, yêu cầu giảng viên phải ra nước ngoài dự hội thảo, tham gia hướng dẫn luận án tiến sỹ, thạc sỹ, tham gia các hội đồng khoa học, viết bài báo khoa học trong và ngoài nước, động viên khuyến khích viết báo ở các tạp chí ISI.
Từng bước thúc đẩy nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, lúc đầu động viên, khuyến khích sau trở thành nhiệm vụ của giảng viên. Sau 2 lần kế hoạch 5 năm, thành công về nghiên cứu khoa học, trường đã xứng đáng là một trường đại học nghiên cứu được thế giới thừa nhận.
Vấn đề thứ 9: trường nghiêm túc, kiên trì yêu cầu các giảng viên cán bộ nhân viên ở mọi nơi chốn: liên tục phải có trách nhiệm đào tạo, giáo dục các sinh viên, học viên để khi tốt nghiệp ra trường vừa có đức vừa có tài để xây dựng đất nước. Quả thực, trường đã làm thức tỉnh truyền thống của cha ông: "tiên học lễ, hậu học văn".
Còn tiếp...
Học phí trường đại học Tôn Đức Thắng năm 2020 cao cỡ nào? Tuỳ từng chuyên ngành đào tạo mà mức học phí trường Đại học Tôn Đức Thắng có sự khác nhau, trong đó học phí ngành Dược học là cao nhất với 42.000.000 đồng/năm. Trường Đại học Tôn Đức Thắng Ngày 15/8 vừa qua, hệ thống xếp hạng ĐH thế giới Academic Ranking of World Universities (ARWU) của Trường Đại học Giao thông Thượng...