Thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo
Chương trình Phát triển tài sản trí tuệ (TSTT) giai đoạn 2011-2020 có mục tiêu nâng cao nhận thức của các tổ chức, cá nhân về sở hữu trí tuệ (SHTT), nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ; hỗ trợ bảo hộ, quản lý và phát triển TSTT cho các thành quả nghiên cứu khoa học, các sản phẩm quốc gia, sản phẩm chủ lực địa phương và phát triển nguồn nhân lực về SHTT.
Kết quả thực hiện Chương trình đã góp phần khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động đổi mới sáng tạo, tạo dựng văn hóa SHTT, góp phần khẳng định vai trò của SHTT trong đời sống kinh tế – xã hội.
Sản phẩm dứa Cầu úc của tỉnh Hậu Giang được đăng ký chỉ dẫn địa lý.
Hương trình Phát triển TSTT giai đoạn 2011 – 2020 được thực hiện theo Quyết định số 2204/Q-TTg ngày 6-12-2010 và Quyết định số 1062/Q-TTg ngày 14-6-2016 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đánh giá của Cục SHTT, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH và CN), chương trình đã thật sự lan tỏa, được các địa phương, doanh nghiệp, nhà khoa học hưởng ứng và chủ động triển khai. Bên cạnh việc tham gia chương trình này, 63 tỉnh, thành phố đã ban hành cơ chế, chính sách, triển khai hoạt động hỗ trợ phát triển TSTT cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất, kinh doanh… Trong gần 10 năm tổ chức triển khai chương trình, các địa phương đã tổ chức khoảng 1.200 lớp tập huấn cho khoảng 60.000 lượt người. Nội dung tập huấn tập trung vào hướng dẫn sử dụng công cụ SHTT để xây dựng, thực hiện chiến lược kinh doanh, tạo lợi thế cạnh tranh của sản phẩm cho các doanh nghiệp; hướng dẫn người dân sản xuất và kinh doanh sản phẩm có tem nhãn, bao bì, thành lập các tổ chức tập thể để thay mặt cộng đồng tiến hành các thủ tục bảo hộ SHTT cho các đặc sản, hướng dẫn kiểm soát nguồn gốc và chất lượng sản phẩm được bảo hộ SHTT. ồng thời, các địa phương đã thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ khác nhằm nâng cao nhận thức chung của xã hội về hoạt động bảo hộ, thủ tục đăng ký xác lập, bảo vệ, thực thi quyền SHTT, như: tổ chức hội thảo, hội nghị, tọa đàm, cuộc thi, tập huấn chuyên ngành… Hiệu quả mang lại là đã nâng cao nhận thức của xã hội về SHTT, góp phần tăng lượng đơn sở hữu công nghiệp nộp đăng ký bảo hộ tại Cục SHTT khoảng 10-12%/năm. Trong giai đoạn 2011-2019, Cục SHTT tiếp nhận và công bố 278.144 đơn đăng ký nhãn hiệu, 14.084 đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp, 4.705 đơn đăng ký sáng chế và 2.509 đơn đăng ký giải pháp hữu ích.
Chương trình đã góp phần nâng cao chất lượng nhân lực về SHTT. Hiện nay, cả nước có sáu trường đại học tổ chức đào tạo chính quy cho sinh viên về SHTT, nhưng SHTT chỉ được đào tạo lồng ghép với các môn học khác, do đó, nhân lực chưa chuyên sâu về SHTT. Triển khai chương trình, Cục SHTT đã tổ chức các khóa đào tạo cơ bản, nâng cao, đào tạo chuyên sâu cho các đối tượng. Giai đoạn 2011 – 2015, đã tổ chức được hơn 500 lớp tập huấn, đào tạo cho khoảng 25.000 học viên, cung cấp các kiến thức cơ bản về quản trị SHTT cho doanh nghiệp, nhà khoa học, kiến thức về bảo hộ SHTT, quản lý và phát triển TSTT cho các sản phẩm đặc thù địa phương. Thí dụ, phối hợp với các đơn vị liên quan đào tạo về SHTT cho cán bộ quản lý thị trường, hải quan, cảnh sát kinh tế; đào tạo về quản trị TSTT cho các doanh nghiệp; đào tạo cho các văn nghệ sĩ, cán bộ làm nghệ thuật nâng cao ý thức, chống xâm phạm ý tưởng, sản phẩm sáng tạo; đào tạo chuyên ngành về sáng chế cho các nhà khoa học…
Video đang HOT
Công tác hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chiến lược SHTT và quản trị TSTT cũng được đẩy mạnh, góp phần giúp doanh nghiệp quản lý và khai thác tốt nguồn TSTT. Hiện, nhiều mô hình của chương trình đang được thực hiện tại các doanh nghiệp, dần phát huy hiệu quả như: Mô hình quản trị TSTT tại Công ty cổ phần Sữa Hà Nội, Công ty cổ phần Tập đoàn DABACO Việt Nam, Công ty cổ phần Vĩnh Thắng… Chương trình đã hỗ trợ bảo hộ sáng chế quốc tế cho các nhà khoa học, hỗ trợ khai thác, áp dụng sáng chế cho tổ chức KH và CN như: Viện Hàn lâm KH và CN Việt Nam, ại học Bách khoa Hà Nội, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, Viện Dược liệu… Thông qua đó đã góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo, gia tăng giá trị TSTT cho xã hội. Nhiều sáng chế được thương mại hóa thành công, được người tiêu dùng trong nước đón nhận, như: Dự án áp dụng sáng chế số 7430 để xây dựng hệ thống xử lý nước rỉ rác từ bãi chôn lấp rác thải của TP Móng Cái và huyện Hải Hà (Quảng Ninh) do Viện Công nghệ sinh học và Công nghệ thực phẩm, ại học Bách khoa Hà Nội (chủ sở hữu sáng chế) chủ trì thực hiện. Dự án áp dụng giải pháp hữu ích số 935 quy trình sản xuất sản phẩm giàu axit béo omega-3 để tạo thực phẩm chức năng, thực phẩm bổ sung EPA, DHA chất lượng cao do Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên, Viện Hàn lâm KH và CN Việt Nam (chủ sở hữu giải pháp hữu ích) chủ trì thực hiện…
iểm nổi bật của chương trình là tăng cường hỗ trợ bảo hộ, quản lý TSTT cho các sản phẩm nông nghiệp. Trong giai đoạn 2011-2019, có 1.148 sản phẩm chủ lực địa phương, sản phẩm nông nghiệp đặc thù, sản phẩm OCOP đã được Bộ KH và CN và các địa phương hỗ trợ bảo hộ quyền SHTT trong nước. Nhiều sản phẩm sau khi được bảo hộ SHTT được người tiêu dùng biết đến rộng rãi, giá trị sản phẩm gia tăng đáng kể, như: Cam Cao Phong, nước mắm Phú Quốc, vải thiều Lục Ngạn, cam Hà Giang… Bên cạnh đó, hỗ trợ bảo hộ ra nước ngoài một số sản phẩm chủ lực của Việt Nam như: Chè Thái Nguyên, vải thiều Lục Ngạn – Bắc Giang, thanh long Bình Thuận và cà-phê Buôn Ma Thuột.
Cục trưởng SHTT inh Hữu Phí cho biết, kết quả triển khai chương trình là luận cứ khoa học và thực tiễn quan trọng để Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt chiến lược SHTT đến năm 2030 theo Quyết định số 1068/Q-TTg ngày 22-8-2019. Chương trình phát triển TSTT cho giai đoạn tiếp theo đang được Cục SHTT chủ trì xây dựng với quan điểm và định hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, đưa SHTT trở thành một trong những công cụ hữu hiệu để khuyến khích, thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, phát triển công nghệ, bảo đảm khả năng cạnh tranh lành mạnh, góp phần thúc đẩy sự phát triển của KH và CN và kinh tế – xã hội của đất nước. Cục SHTT sẽ tham mưu cho Bộ KH và CN ưu tiên, tập trung hỗ trợ hoạt động truy xuất nguồn gốc, chất lượng, phát triển sản phẩm chủ lực địa phương được bảo hộ quyền SHTT theo chuỗi giá trị, tăng cường hỗ trợ bảo hộ TSTT của Việt Nam tại các thị trường lớn trên thế giới.
Khung pháp lý cho thuốc lá thế hệ mới: Cần nghiên cứu kỹ
Những năm gần đây, thuốc lá điện tử, thuốc lá làm nóng (gọi chung là thuốc lá thế hệ mới) xuất hiện nhiều trên thị trường.
Do là sản phẩm mới, còn có những quan điểm, cách hiểu khác nhau, vì thế việc xây dựng khung pháp lý quản lý thuốc lá thế hệ mới cần được nghiên cứu kỹ.
Lực lượng quản lý thị trường Hà Nội kiểm tra một cơ sở kinh doanh thuốc lá điện tử (tháng 11-2020).
Ý kiến vẫn còn khác biệt
Bộ Công Thương cho biết, Bộ đang chủ trì soạn thảo khung pháp lý cho thuốc lá thế hệ mới, trong bối cảnh hàng nhập lậu đang tăng nhanh trên thị trường nhưng các cơ quan chức năng chưa có hướng xử lý vì thiếu vắng các chính sách quản lý.
Trong khi đó, Bộ Y tế vẫn duy trì quan điểm nên cấm dòng sản phẩm này. Theo quan điểm của đại diện Bộ Y tế, không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, thuốc lá điện tử còn bị lợi dụng để sử dụng các chế phẩm ma túy, do đó cần cấm nhập khẩu, sản xuất cũng như kinh doanh, sử dụng. Còn Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, Bộ đang xem xét xây dựng tiêu chí kỹ thuật đối với thuốc lá thế hệ mới.
Trên thế giới, các tổ chức quốc tế và các quốc gia đang đưa ra các quan điểm khác nhau với thuốc lá thế hệ mới.
Về mặt phân loại sản phẩm, Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) đã thông qua đề xuất sửa đổi Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa qua đó, tạo ra thêm một phân nhóm mới 2404 cho thuốc lá thế hệ mới, tách biệt với phân nhóm 2402 dành cho thuốc lá điếu truyền thống. Phiên bản sửa đổi này sẽ có hiệu lực từ ngày 1-1-2022.
Châu Âu là một trong những thị trường ủng hộ thuốc lá thế hệ mới và có chính sách quản lý thuốc lá thế hệ mới "dễ thở" hơn so với thuốc lá truyền thống. Một số quốc gia khác thì quản lý như thuốc lá truyền thống và cũng có quốc gia quyết định cấm sản phẩm thuốc lá thế hệ mới.
Đánh giá tác động kinh tế - xã hội trước khi luật hóa
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, việc cấm thuốc lá thế hệ mới là không khả thi vì người tiêu dùng Việt Nam vẫn có nhu cầu, và thị trường sản phẩm nhập lậu vẫn tràn lan. Tuy nhiên, cần thời gian để nghiên cứu kỹ một khung pháp lý và đánh giá tác động kinh tế - xã hội trước khi chính thức mở cửa thị trường với thuốc lá thế hệ mới.
Theo bà Phan Minh Thủy, Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, việc đưa ra chính sách nào cũng cần nghiên cứu rất kỹ và có các giải pháp toàn diện, từ các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đến quy định về kinh doanh (như sản xuất, phân phối, tiêu thụ, đầu tư, mua bán nguyên liệu), quy định về quảng cáo, thuế, biện pháp xử lý vi phạm.
Luật sư Bùi Quang Nghiêm, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, thuốc lá thế hệ mới không phải là mặt hàng thiết yếu và còn khá lạ lẫm nên cần thận trọng, nghiên cứu kỹ lưỡng, có thêm thời gian đánh giá tác động riêng về mặt kinh tế, xã hội, sức khỏe người tiêu dùng, mức độ rủi ro của sản phẩm...
Trên cơ sở đó, xây dựng khung pháp lý phù hợp, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, phù hợp với chiến lược quốc gia về giảm thiểu tác hại thuốc lá và không làm gia tăng thị trường thuốc lá bất hợp pháp.
Ngoài ra, theo ông Lê Thành Hưng, Viện Tiêu chuẩn - Chất lượng Việt Nam (Bộ Khoa học và Công nghệ), giữa thuốc lá truyền thống và thuốc lá thế hệ mới có sự khác biệt về đặc tính và cách thức hoạt động. Vì thế, cần có thời gian nghiên cứu, định ra các quy định quản lý, tiêu chí kỹ thuật, đánh giá sự tương đồng giữa các sản phẩm, đo lường tiềm năng giảm thiểu tác hại đối với sức khỏe người dùng và cộng đồng.
Tuy nhiên, nếu thiếu vắng khung pháp lý thì sẽ rất khó xử lý hàng lậu, hàng không rõ nguồn gốc đang tràn vào Việt Nam. Trong tình hình này, một số chuyên gia cho rằng trước mắt cơ quan quản lý có thể xem xét xử lý thuốc lá thế hệ mới bất hợp pháp như thuốc lá điếu nhập lậu để áp dụng chung các quy định xử phạt trong khi chờ ban hành chính sách quản lý riêng cho cả thuốc lá thế hệ mới.
Chính phủ đặt mục tiêu có 500 doanh nghiệp công nghệ cao Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2030, cả nước sẽ có khoảng 500 doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao và 200 doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa ký ban hành Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030. Theo đó, mục tiêu cụ thể của Chương...