Thử thách lớn với phục hồi kinh tế
Khi lệnh phong tỏa dần được nới lỏng tại nhiều quốc gia thì hoạt động kinh doanh, sản xuất bắt đầu được khởi động trở lại. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc người lao động được khôi phục việc làm. Ngược lại, hàng loạt đợt cắt giảm nhân sự mới tiếp tục diễn ra. Làn sóng thất nghiệp mới thứ hai này đang tiếp tục tạo thử thách lớn với việc phục hồi kinh tế của nhiều quốc gia.
Dòng người chờ đợi bên ngoài một trung tâm hỗ trợ người thất nghiệp tại Las Vegas, Mỹ.
Trong ngày 27-5, Tập đoàn Boeing của Mỹ đã tuyên bố cắt giảm thêm 6.770 nhân sự, một phần trong kế hoạch sa thải khoảng 10% trong tổng 145.000 nhân viên của hãng trên toàn cầu. Cùng ngày, Chevron – nhà sản xuất dầu lớn thứ hai của Mỹ cho biết sẽ cắt giảm 15% nhân sự trên toàn cầu. Trong khi đó, IBM dừng hợp đồng với hàng nghìn vị trí và Uber cho nghỉ khoảng 7.000 nhân viên cùng với việc đóng cửa 45 văn phòng trên toàn cầu.
Ở châu Âu, Hãng xe Renault của Pháp ngày 29-5 thông báo sẽ giảm 15.000 việc làm nhằm tiết kiệm 2 tỷ euro (2,2 tỷ USD) trong 3 năm tới. Hãng hàng không Anh British Airways cũng thông báo sẽ sa thải khoảng 12.000 nhân viên.
Trên cơ sở bức tranh ảm đạm của thị trường lao động toàn cầu, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) ước tính số giờ làm việc trong quý II-2020 của thế giới sẽ giảm 10,7% so với cùng kỳ năm 2019, tương đương với việc mất đi hơn 305 triệu việc làm toàn thời gian. Trong đó, nhóm lao động trẻ tuổi thiệt hại nhiều hơn cả, với khoảng 40% (tương đương 178 triệu người) đang làm việc trong các lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch Covid-19. ILO còn lo ngại về việc có tới 77% số lao động trẻ tuổi của thế giới (khoảng 328 triệu người) đang làm các công việc không chính thức, đồng nghĩa rằng họ sẽ xếp đầu trong các danh sách sa thải thời gian tới.
Video đang HOT
Tại Mỹ, Chủ tịch Hội đồng cố vấn kinh tế của Nhà Trắng Kevin Hassett cảnh báo, tỷ lệ thất nghiệp ở nước này sẽ lên tới 22%-23% trong tháng 5 và tăng nhẹ trong tháng 6 trước khi có thể giảm trở lại. Hãng nghiên cứu Statista cũng nâng dự báo tỷ lệ thất nghiệp của Liên minh châu Âu (EU) lên mức 9% trong năm 2020. Trong đó, những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là Hy Lạp (19,9%) và Tây Ban Nha (18,9%).
Sự xuất hiện của làn sóng thất nghiệp thứ hai tiếp tục đè nặng lên các nỗ lực khôi phục kinh tế của nhiều quốc gia. Trong một tuần vừa qua, Mỹ đã ghi nhận thêm 2,1 triệu đơn xin trợ cấp thất nghiệp, chính thức đưa con số này vượt mốc 40,8 triệu đơn. Tại châu Âu, có tới 35 triệu lao động ở 5 nền kinh tế lớn nhất khu vực hiện chỉ được thanh toán một phần lương. Người lao động thất nghiệp từ nước ngoài trở về cũng đang trở thành vấn đề lớn với một số nước. Tại Philippines, chính phủ đang đẩy nhanh việc giải quyết các thủ tục để 24.000 lao động hồi hương đang ở trong các cơ sở cách ly được về nhà. Đáng chú ý, lao động ở nước ngoài là một trụ cột của nền kinh tế quốc gia Đông Nam Á này, đem tới lượng kiều hối khoảng 30 tỷ USD/năm cho Philippines.
Để người lao động có thể trở lại làm việc hoặc tìm được việc làm trong bối cảnh “bình thường mới”, các chính phủ đã tung ra nhiều gói kích thích kinh tế, trong đó ưu tiên tạo việc làm cho người lao động và hỗ trợ doanh nghiệp nhằm tránh tình trạng sa thải nhân công ồ ạt. Tuy nhiên, hiệu quả thực tế vẫn chưa rõ ràng.
Dẫu vậy, nhiều ý kiến cho rằng, dịch Covid-19 đang tạo ra những thay đổi đáng kể về mô hình hoạt động của các doanh nghiệp và sự chuyển dịch của chuỗi cung ứng, tạo ra nhiều cơ hội mới trên thị trường lao động. Khi những mô hình mới phát huy hiệu quả, các chủ thể sử dụng lao động sẽ điều chỉnh nhu cầu nhân sự theo hướng ưu tiên nhóm có trình độ cao, kỹ năng phù hợp. Khi đó, những lao động kịp thời tự trang bị cho mình những kỹ năng cần thiết sẽ sớm tìm lại được việc làm, thậm chí có được cơ hội thu nhập tốt hơn.
Tìm chính sách phục hồi kinh tế: Phải giảm mạnh lãi suất cho vay
Việc giảm lãi suất chưa mạnh thời gian qua khiến lãi vay vẫn là gánh nặng ảnh hưởng đến quá trình phục hồi của doanh nghiệp, cá nhân
Như Báo Người Lao Động đã thông tin, lựa chọn chính sách thích hợp cho phục hồi và phát triển kinh tế Việt Nam trong dịch Covid-19 đang là mối quan tâm hàng đầu để sớm khôi phục hoạt động sản xuất - kinh doanh.
Nghiên cứu chính sách chưa có tiền lệ
Báo cáo kết quả nghiên cứu "Lựa chọn chính sách phục hồi kinh tế Việt Nam giai đoạn Covid-19" của Viện Nghiên cứu phát triển công nghệ ngân hàng (NH), ĐHQG TP HCM cho thấy cuộc khủng hoảng do Covid-19 hiện nay tạo ra cú sốc ở cả 2 mảng cung và cầu. Mức độ, tốc độ và mô hình phục hồi của nền kinh tế không chỉ phụ thuộc vào khả năng khống chế sự lây lan của dịch bệnh mà còn phụ thuộc vào sự kịp thời, phù hợp của chính sách tiền tệ, biện pháp ổn định hệ thống tài chính và chính sách tài khóa, an sinh xã hội. Bản chất khác biệt của cuộc khủng hoảng lần này đòi hỏi Chính phủ phải có phản ứng phi truyền thống, sáng tạo, thậm chí khác biệt với chính sách đã từng được áp dụng trong quá khứ.
Thực tế, với chính sách tiền tệ, NH Nhà nước đã 2 lần hạ các mức lãi suất điều hành trong tháng 3 và tháng 5, lãi suất liên NH đã có xu hướng giảm trong quý I/2020 ở cả kỳ hạn qua đêm và 1 tuần nhưng mặt bằng lãi suất tiền gửi trong suốt quý I và cả tháng 4 không thay đổi đáng kể. Kết quả là lãi suất cho vay của các NH dù được chỉnh giảm nhưng chưa đạt sự kỳ vọng của người vay trong bối cảnh Covid-19.
Sắp tới, lãi suất cho vay có thể sẽ giảm thêm Ảnh: HOÀNG TRIỀU
Các chuyên gia của Viện Nghiên cứu phát triển công nghệ NH khuyến nghị NH Nhà nước có thể cân nhắc việc chấp nhận đánh đổi mục tiêu lạm phát để thực thi chính sách tiền tệ mở rộng. Chính phủ sẽ đề xuất Quốc hội điều chỉnh tăng mục tiêu lạm phát năm nay để giúp NH Nhà nước có cơ sở nới lỏng tiền tệ nhiều hơn, lãi suất sẽ được cắt giảm mạnh hơn hiện nay. Không chỉ dừng lại ở giảm lãi suất liên NH mà phải tác động làm hạ thấp hơn nữa mặt bằng lãi suất huy động và cho vay. "Hiệu quả của chính sách lãi suất phụ thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của hệ thống NH và thị trường. Dù nhu cầu này hiện khá thấp nhưng việc giảm lãi suất không đáng kể thời gian qua khiến lãi vay vẫn là gánh nặng cho bên vay, ảnh hưởng đến quá trình phục hồi của doanh nghiệp (DN), cá nhân" - TS Trần Hùng Sơn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển công nghệ NH, nhận định.
Theo ông Nguyễn Tú Anh, Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp - Ban Kinh tế trung ương, cho rằng lãi suất trên thị trường liên NH kỳ hạn 1 tháng đã rất thấp, chỉ còn 1,8%/năm. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường không hấp thụ được, sắp tới lãi suất cho vay sẽ phải hạ thêm. Vấn đề then chốt của chính sách tiền tệ lúc này lại nằm ở chính sách tài khóa bởi nếu khoảng 700.000 tỉ đồng vốn đầu tư công ra được thị trường, nguồn tiền này sau đó sẽ quay trở lại hệ thống NH giúp NH thương mại huy động vốn tốt hơn và có cơ hội giảm lãi vay. Do đó, chính sách tài khóa phải đi trước.
Ông Nguyễn Quốc Hùng - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NH Nhà nước - thì cho rằng để giảm mặt bằng lãi suất của tổ chức tín dụng thì phải hạ cả đầu vào và đầu ra, với điều kiện phải ổn định tỉ giá và lãi suất. NH Nhà nước đang điều hành theo hướng giảm dần lãi suất cho vay thông qua ổn định VNĐ, lạm phát và hạ lãi suất điều hành. Các NH thương mại đã huy động vốn từ trước với chi phí rất cao nên cần thời gian để mặt bằng lãi suất đi xuống.
Khơi thông đầu tư công, cho DN chuyển lỗ
Dưới góc độ DN, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Đồng Tâm, cho rằng mức lãi vay được hỗ trợ giảm khoảng 0,5-1 điểm % vừa qua chưa thật sự hỗ trợ cho DN. Hiện các DN rất cần nguồn vốn trung dài hạn để ổn định, khôi phục hoạt động và cần được NH Nhà nước xem xét gia hạn thời gian áp dụng tỉ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung - dài hạn thêm 2 năm thay vì theo lộ trình hiện nay. Ông Võ Quốc Thắng cũng đề xuất nâng tỉ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi các NH đang áp dụng là 85% lên 90%, đồng thời giảm áp lực cạnh tranh huy động vốn, tạo điều kiện cho các NH có thể cung ứng thêm vốn ra nền kinh tế với lãi suất thấp hơn trong phạm vi kiểm soát được rủi ro.
Giải pháp được các chuyên gia đề xuất là nhanh chóng khơi thông khối tiền đầu tư công hiện lên tới 700.000 tỉ đồng (gồm vốn phát sinh trong năm khoảng 135.000 tỉ đồng và vốn kế hoạch các năm trước được chuyển nguồn thực hiện ở năm nay khoảng 565.000 tỉ đồng) trong năm nay. Một khuyến nghị khác là cho phép DN chuyển lỗ về năm trước nhằm giảm áp lực chi phí, tài chính của DN trong lúc này. Ông Nguyễn Văn Phụng - Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế DN lớn, Tổng cục Thuế - cho biết vấn đề này đã từng đặt ra trước đây nhưng Quốc hội không thông qua vì số nước áp dụng chính sách này rất ít. Chưa kể hiện nay, việc mua bán sáp nhập rất sôi động, chủ sở hữu DN thay đổi liên tục nên rất khó áp dụng. Dù vậy, đây là đề xuất táo bạo và Tổng cục Thuế sẽ nghiên cứu khi góp ý sửa Luật Thuế thu nhập DN thời gian tới.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan đánh giá trong ứng phó với dịch Covid-19, Chính phủ đã làm tốt khi các gói kích cầu có định hướng, mục tiêu và quy định rõ ràng như gói hỗ trợ nhắm vào người bị mất việc làm do dịch; DN được hỗ trợ đúng mục tiêu về thuế, tín dụng... Dù vậy, việc triển khai còn chậm, thủ tục phức tạp khi một số DN có nhu cầu nhưng thủ tục vay vốn còn khó khăn.
Mở rộng bảo lãnh tín dụng cho DN nhỏ, hộ gia đình
Theo các chuyên gia, so với các DN lớn, khu vực DN vừa và nhỏ, hộ gia đình, cá nhân vay tiêu dùng là những đối tượng bị tổn thương hơn trong Covid-19 và khả năng chịu đựng kém hơn. Đây cũng là nhóm gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận các gói hỗ trợ tín dụng. Để khơi thông dòng vốn đến DN thuộc đối tượng hỗ trợ, Chính phủ cần thực hiện thông qua các định chế tài chính thuộc sở hữu nhà nước hoặc mở rộng chương trình bảo lãnh tín dụng của nhà nước sang NH tư nhân trên cơ sở đồng chia sẻ nhằm hạn chế vấn đề rủi ro đạo đức trong cấp phát tín dụng.
Các chỉ số chứng khoán Mỹ chốt phiên 21/5 cùng giảm điểm Chốt phiên 21/5, chỉ số Dow Jones giảm 101,78 điểm, xuống 24.474,12 điểm, chỉ số S&P 500 giảm 23,10 điểm, xuống 2.948,51 điểm, còn chỉ số Nasdaq Composite giảm 90,90 điểm, xuống 9.284,88 điểm. Các chỉ số chứng khoán Mỹ chốt phiên 21/5 cùng giảm điểm. Ảnh minh họa: TTXVN Chứng khoán Mỹ chốt phiên 21/5 giảm điểm, khi các nhà đầu tư...