Thử đi tìm nguyên nhân của sự xuống cấp về đạo đức
Sự xuống cấp, thậm chí suy thoái về đạo đức đang trở thành hiện tượng có tính toàn cầu, là nỗi lo chung của toàn nhân loại. Riêng đối với dân tộc ta, một dân tộc vốn có hàng ngàn năm văn hiến, một dân tộc biết lấy chữ nhân làm đầu, trọng lối sống tình nghĩa, biết khoan dung và giàu lòng tương thân tương ái, thì sự xuống cấp về đạo đức xã hội quả là một nhức nhối lớn đối với lương tri dân tộc.
Từ nhiều năm nay, trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, trong các kỳ họp Quốc hội, các diễn đàn xã hội khác, chúng ta đã đề cập, bàn luận khá nhiều về sự suy thoái đạo đức từ trong gia đình, nhà trường, xã hội, trong một bộ phận nhân dân, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả những người có chức, có quyền.
Một câu hỏi lớn đã và đang được đặt ra: nguyên nhân của sự xuống cấp về đạo đức là ở đâu? Có người chỉ ra nguyên nhân ở trong nền kinh tế, có người lại khẳng định nguyên nhân ở trong nền văn hóa, ở trong nền giáo dục. Nói kinh tế tác động đến đạo đức xã hội không sai, vì điều kiện sinh hoạt vật chất quyết định các hoạt động ý thức xã hội, trong đó có đạo đức. Nhưng mối liên hệ giữa kinh tế với đạo đức thường không đơn giản. Thực tế chứng minh rằng, khi điều kiện sinh hoạt vật chất quá thiếu thốn, khi những nhu cầu cơ bản về vật chất để bảo đảm sự tồn tại của con người không được đáp ứng, thì khả năng tha hóa của con người rất dễ xảy ra. Trong hoàn cảnh đó, con người rất dễ đánh mất giá trị bản thân của mình. Ngược lại, cũng có trường hợp con người càng giàu có lên bao nhiêu, thì tình người càng suy giảm bấy nhiêu.
Chắc nhiều người còn nhớ tác phẩm Eugenie Grandet của Balzac – nhà văn lớn nước Pháp thế kỷ 19. Khi Grandet chưa giàu có, còn là một tiểu thương, ông rất yêu quý vợ con mình. Nhưng nhờ các thủ đoạn buôn bán, ông ta trở thành tên tư sản kếch sù, thì tình yêu quý đối với vợ con dần dần rời khỏi ông ta, để thay vào đó là tình yêu đối với khối vàng bạc, châu báu mà ông ta tích lũy được. Nói như vậy để thấy rằng mức sống là quan trọng đối với sự phát triển xã hội nói chung, nhưng bản thân mức sống không phải là yếu tố tác động trực tiếp đến đạo đức xã hội.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, điều kiện sinh hoạt vật chất của cán bộ và nhân dân ta còn rất khó khăn và thiếu thốn, nhưng các quan hệ xã hội đều thấm đẫm tình người. Hình ảnh “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” mà nhà thơ Tố Hữu đã viết trong bài thơ “Việt Bắc”, quả đã phản ánh đúng lối sống của người Việt Nam ta một thời gian khó. Việc nhân dân tự động phá nhà mình để làm đường cho xe chở pháo ra mặt trận, cũng là chuyện phổ biến trong những năm tháng chiến tranh.
Ngày nay, tình hình đã khác trước. Sau mấy chục năm tiến hành đổi mới, nhằm phát triển kinh tế – xã hội, từ một nước chậm phát triển, nước ta đã trở thành nước đang phát triển và có nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng. Sự tăng trưởng kinh tế như vậy, lẽ ra phải tạo điều kiện để duy trì và phát triển những giá trị tinh thần tốt đẹp mà dân tộc và cách mạng đã sáng tạo ra. Nhưng, cuộc sống lại không diễn ra như mong muốn của chúng ta. Bên cạnh một số đông nhân dân, cán bộ, đảng viên, vẫn cố gắng bảo vệ, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, thì đã xuất hiện một bộ phận không ít người quay lưng lại với các giá trị đó, thậm chí trở thành những nạn nhân thảm hại của chủ nghĩa cá nhân. Vậy nguyên nhân từ đâu?
Việc từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung để chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu của lịch sử. Kinh tế thị trường bên cạnh ưu điểm thúc đẩy sức sản xuất nhưng cũng có nhiều mặt trái. Mặt trái đó là miếng đất dung dưỡng cho nhiều thói hư tật xấu, đặc biệt là chủ nghĩa cá nhân, sự sùng bái vật chất và lãng quên các giá trị tinh thần. Công tác giáo dục rèn luyện cán bộ đảng viên đã bị coi nhẹ. Các hoạt động phê bình và tự phê bình trong tổ chức Đảng, trong các cán bộ, đảng viên chưa thực sự trở thành động lực để mỗi người tự hoàn thiện bản thân mình. Sự “chệch choạc” đó đã tạo ra kẽ hở để mặt trái kinh tế thị trường thâm nhập vào lối sống, vào cách tư duy, cách xử trí và cách điều hành các hoạt động kinh tế – xã hội của một bộ phận cán bộ đảng viên. Hậu quả là đã xuất hiện một số cán bộ, đảng viên, thậm chí cả những người có chức có quyền, sống xa dân, vô cảm với đời sống của nhân dân. Chính họ là những người hoặc đề xuất một số chủ trương chính sách sai lầm, hoặc làm méo mó các chủ trương chính sách vốn đúng đắn của Đảng và Nhà nước, dẫn tới hậu quả làm thất thoát tài sản của Nhà nước, gây bao phiền hà không đáng có cho người dân. Lòng tin của người dân đối với công lý, đối với Đảng bị giảm sút. Có lẽ đây là vấn đề lớn, vấn đề đầu tiên, vấn đề có tính then chốt cần tập trung giải quyết nhằm khắc phục tất cả những yếu kém, những khó khăn thách thức đang diễn ra, trong đó có vấn đề đạo đức xã hội.
Các hoạt động về kinh tế, về văn hóa, về giáo dục đều rất quan trọng, vì liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của con người, của xã hội. Đảng ta nhiều lần khẳng định: phát triển kinh tế là trung tâm, văn hóa là nền tảng tinh thần, giáo dục là quốc sách hàng đầu. Chúng ta đã có nhiều dịp tổng kết và chắc chắn không ai có thể phủ nhận những thành tựu mà chúng ta đã đạt được. Nhưng có lẽ không ai không băn khoăn lo lắng khi sự xuống cấp về đạo đức, về tinh thần vẫn cứ diễn ra, và có vẻ càng ngày càng trầm trọng. Nếu trước đây, Đảng khẳng định một bộ phận nhỏ cán bộ đảng viên có biểu hiện suy thoái về đạo đức, thì bây giờ, bộ phận nhỏ đã trở thành bộ phận không nhỏ. Nguy hiểm hơn, đã xuất hiện hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một số cán bộ có chức có quyền. Trong xã hội cũng vậy. Tội phạm xã hội ngày càng gia tăng về số lượng và về tính chất nguy hiểm.
Cô giáo và học sinh trong giờ Giáo dục Công dân
Tình hình đó đặt ra một số vấn đề lớn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn khi chúng ta tổng kết 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước và trước mắt, chuẩn bị cho các văn kiện trình Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Lâu nay chúng ta vẫn quen với cách suy nghĩ lấy tổng sản phẩm quốc dân và thu nhập theo đầu người là thước đo sự phát triển kinh tế của đất nước. Theo cách đó thì sự phát triển kinh tế những năm gần đây cao hơn so với mươi năm trước. Nhưng về an sinh xã hội, về đạo đức tinh thần thì sao? Có cải thiện hơn những năm trước không?
Gần đây, nhiều học giả đã đưa ra dự báo rằng: nếu sự phát triển kinh tế không được chia sẻ cho toàn xã hội thì xem như thất bại. Có nghĩa rằng sự phát triển kinh tế phải được xây dựng trên nguyên tắc công bằng xã hội: công bằng trong việc tạo công ăn việc làm, công bằng trong thu nhập. Điều đó có nghĩa rằng nếu kinh tế phát triển, nhưng một bộ phận người dân không được tạo điều kiện thuận lợi để lao động tạo ra sản phẩm, thì chính trong bộ phận đó dễ nẩy sinh các hiện tượng tiêu cực. Cha ông ta thường nói: nhàn cư vi bất thiện, là theo nghĩa như vậy.
Về trợ cấp xã hội cũng vậy. Đối với những vùng khó khăn như miền núi, việc trợ cấp của Nhà nước là rất quan trọng. Nhưng đã gọi là trợ cấp, thì khó mà có mức sống khá được. Có lẽ nào cứ để bà con ở đó chịu đựng sự thiếu thốn mãi sao. Người ta thường nói: hãy đưa cho bà con cái cần câu, chứ đừng đưa cho họ con cá. Nếu chỉ đưa cá cho họ, thì sẽ có tình trạng có ngày có cá ăn, có ngày không có. Nhưng đưa cho họ cần câu, thì với khả năng lao động và sáng tạo của bà con, ngày nào họ cũng có cá ăn. Nói chia sẻ sự phát triển kinh tế cho toàn xã hội cũng là ở đó. Vì vậy, khi nói công tác xóa đói giảm nghèo, thực chất phải là tạo điều kiện thật thuận lợi về vốn, về kinh nghiệm sản xuất, về công nghệ, về hướng đầu tư kinh tế để bà con tự đứng lên bằng đôi chân của họ. Với cách làm đó, bà con nhân dân ở những vùng khó khăn sẽ cảm thấy tự tin hơn ở bản thân, và càng tin hơn ở Đảng và Nhà nước. Vì vậy phát triển có nghĩa là làm biến đổi con người chứ không phải chỉ làm biến đổi kinh tế. Phải chăng từ nhận thức đó chúng ta sẽ tiếp cận với nhận thức mới của thời đại: từ GDP phải chuyển dần sang HID (Humain Index Development), tức từ chỗ chỉ quan tâm bình quân thu nhập, tiến đến quan tâm chỉ số phát triển con người. Nói đến chỉ số phát triển con người là nói đến tổng hòa các nhân tố liên quan đến con người, trong đó có đạo đức.
Về văn hóa, giáo dục cũng vậy. Nhiều hoạt động văn hóa được tổ chức, nhiều di tích văn hóa được tôn vinh, các lễ hội rầm rộ tổ chức khắp nơi. Đã xuất hiện hàng trăm trường đại học ở khắp các tỉnh thành. Tỷ lệ số sinh viên trên tổng số dân số khá cao. Nhưng kết quả của những hoạt động đó như thế nào thì chắc chưa có thống kê thật chính xác. Vì vậy, ngay từ bây giờ chúng ta cần một sự đổi mới thực sự về nhận thức, đặc biệt nhận thức về sự phát triển, để trên cơ sở đó có những chủ trương, biện pháp thích hợp bảo đảm cho sự phát triển bền vững đất nước khi chúng ta gia nhập ngày càng sâu hơn vào quá trình toàn cầu hóa.
Video đang HOT
Có lẽ, các hoạt động văn hóa, giáo dục không nên chỉ dừng lại ở số lượng các việc làm, các phong trào. Điều quan trọng là ở chất lượng và hiệu quả xã hội của các việc làm, các phong trào đó. Việc trùng tu, tu bổ các di sản văn hóa, các di tích lịch sử là rất cần, vì đó là các tượng đài văn hóa của dân tộc. Nhưng việc tu bổ, tôn tạo các giá trị tinh thần trong mỗi con người Việt Nam hiện nay, làm sao để các giá trị truyền thống mà cha ông đã dày công tạo nên vẫn được thắp sáng, vẫn được kế thừa và phát huy, càng là bức thiết hơn.
Hơn 20 năm về trước, năm 1994, bà Utahabke- một nhà giáo, nhà văn hóa người Đức, trong chuyến thăm Việt Nam đã có dịp phát biểu với Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam lúc đó – nhạc sĩ Trần Hoàn, một câu nói thật tâm đắc: “Tôi rất quý trọng và yêu mến văn hóa truyền thống Việt Nam. Chúng tôi đến đây để được thưởng thức bát canh rau muống, nước dừa tươi, nghe đàn bầu, đàn t’rưng làm bằng ống tre và các loại đàn dân gian đóng bằng gỗ mít hoặc bằng da rắn hay bằng đất nung, tuy thô sơ đơn giản nhưng lại đặc biệt dân tộc. Những đồ vật xem ra tầm thường đó đã lại nói lên được óc sáng tạo phong phú của con người Việt Nam cần cù và thông minh sáng tạo. Đó là cái mà chúng tôi đi tìm và là cái mà các bạn Việt Nam phải tự hào, phải bảo tồn và phát huy. Nếu các bạn không kịp thời có biện pháp ngăn chặn, văn minh vật chất phương Tây sẽ ồ ạt xâm chiếm sau khi lệnh cấm vận được xóa bỏ… Các bạn nên nhớ: nếu đánh mất văn hóa thì dân tộc cũng mất luôn. Đất nước, non sông các bạn đẹp quá, nhưng đó chỉ là phần xác. Bản sắc dân tộc, văn hóa giống nòi chính là phần hồn, các bạn hãy giữ lấy hồn thiêng sông núi, chứ đừng chỉ giữ núi sông không”(1).
Cho đến nay, những người Việt Nam, từ những người lãnh đạo, quản lý đến những người dân thường, hễ ai còn nặng lòng với hồn thiêng sông núi, không thể không băn khoăn suy nghĩ về những gì đang diễn ra trong đời sống tinh thần dân tộc, đặc biệt đối với thế hệ trẻ. Phải chăng những lệch lạc trong lối sống, sự phá cách về chuẩn mực đạo đức đang xuất hiện đó đây, đều có gốc rễ từ sự phai nhạt các giá trị truyền thống của dân tộc dưới tác động của nền văn minh vật chất từ bên ngoài tràn vào.
Về lĩnh vực giáo dục – đào tạo cũng vậy. Để có sự đánh giá chính xác cần có cách nhìn mới, tức nhìn qua lăng kính đúp: giáo dục – đào tạo đã góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế – xã hội như thế nào và chúng tác động trực tiếp đến sự hình thành nhân cách con người ra sao. Vấn đề này, Bác Hồ đã đề cập từ lâu, khi Người khẳng định: Học để làm việc, làm người… Đáng tiếc rằng, tư tưởng đó của Người được nói ra từ gần 70 năm trước, nhưng những người trực tiếp hoạt động trên lĩnh vực giáo dục – đào tạo hiện nay vẫn chưa quán triệt đầy đủ trong hoạt động thực tiễn. Hậu quả, sản phẩm của nền giáo dục chưa đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Sinh viên tốt nghiệp ngày càng đông, nhưng tỷ lệ những người có việc làm sau khi tốt nghiệp còn thấp. Vấn đề tư tưởng, đạo đức và lối sống trong sinh viên đang diễn biến khá phức tạp. Tình hình đó dễ tạo ra sự bất ổn và có thể mất phương hướng trong một bộ phận thanh niên. Đó có thể là miếng đất để ươm mầm những lệch chuẩn về đạo đức, về nhân cách.
Như vậy, nếu bản chất con người là sự tổng hòa của các quan hệ xã hội, thì đạo đức, hay sự xuống cấp về đạo đức đều có gốc rễ trong tất cả các hoạt động của con người: trong kinh tế, trong chính trị, trong văn hóa, giáo dục v.v..
Hơn 10 năm trước, tại Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX có đưa ra một kết luận vô cùng quan trọng: phải gắn kết nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng với xây dựng nền tảng tinh thần là văn hóa. Đó là 3 chân kiềng vững chắc cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Tư tưởng đó thể hiện mối quan hệ biện chứng, hữu cơ giữa sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần, tôn vinh con người, coi con người là động lực và mục tiêu của các hoạt động kinh tế và xã hội. Quán triệt thật tốt tư tưởng chỉ đạo đó sẽ là giải pháp có tính chiến lược cho sự phát triển bền vững đất nước – có nghĩa là bảo đảm cho sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và con người. Trong giải pháp có tính chiến lược đó, việc tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng thực sự là đạo đức, văn minh, như Bác Hồ đã dạy, phải là khâu đột phá cực kỳ quan trọng. Khi Đảng thực sự là đạo đức, văn minh, thì mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước mới thành “đạo nghĩa” của dân tộc, các cán bộ, đảng viên mới thực sự trở thành tấm gương sáng cho mọi người. Khi đó, và chỉ khi đó đạo đức mới trở thành lẽ sống, lối sống cho mọi người./.
(1) Bài đăng trong “ Thế giới mới”, số 90, năm 1994.
Theo tuyengiao
Đề xuất tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2: Ý tưởng tuyệt vời nhưng phải cẩn trọng
Đề xuất đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 của Việt Nam là một ý tưởng tuyệt vời bởi tiếng Anh được coi là ngôn ngữ chính trong mọi tiến trình đàm phán quốc tế; nhưng cũng không thể phủ nhận nguy cơ đe dọa đến nền văn hoá lâu đời nếu Việt Nam coi tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2.
Tại Diễn đàn Thanh niên khởi nghiệp năm 2018 với chủ đề "Tìm giải pháp đột phá cho khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam", Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã đề xuất Thủ tướng sớm công nhận tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2 của Việt Nam. Nhiều ý kiến của giáo viên dạy tiếng Anh người nước ngoài và doanh nghiệp đã bày tỏ quan điểm về ý tưởng này.
Cô giáo Fritzie Caspe: Phá bỏ rào cản ngôn ngữ, mở ra vô vàn cơ hội cho người Việt
"Cô Fritzie Caspe, Trưởng bộ phận Học vụ tại Trung tâm Anh ngữ JOLO - Chi nhánh Nguyễn Thị Định"
Là một đất nước đang trải qua quá trình thay đổi toàn diện trong nhiều lĩnh vực và trong thời đại toàn cầu hoá, Việt Nam coi việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai của đất nước là một lựa chọn cần thiết.
Bằng cách này, Việt Nam sẽ thực sự mở rộng cánh cửa với thế giới và đảm bảo rằng người dân của mình có thể giao tiếp, đối thoại quốc tế một cách đầy đủ và toàn diện. Cho dù mục đích của sự đối thoại, giao tiếp là để phục vụ kinh tế, giáo dục, du lịch hay văn hoá, thì cũng không thể phủ nhận khả năng nói tiếng Anh giờ đã trở thành một kỹ năng sống quan trọng.
Nhiều người Việt hiện nay được trang bị những kỹ năng và hiểu biết sâu sắc trong nhiều lĩnh vực, và họ sẽ thực sự đóng góp cho sự phát triển vượt bậc đất nước nếu họ có thể thể hiện tài năng với thế giới. Để làm vậy, họ cần hợp tác với cộng đồng quốc tế, và chắc chắn tiếng Anh sẽ là phương tiện giao tiếp chính.
Hơn nữa, khi được học tiếng Anh từ sớm, học sinh, sinh viên Việt Nam sẽ có rất nhiều lợi thế. Việc học và hành cần phải đi đôi với nhau. Vậy nên nếu tiếng Anh trở thành ngôn ngữ chính, các em sẽ không còn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm một môi trường thực hành Anh ngữ thường xuyên và chuẩn quốc tế. Các em sẽ dễ dàng giao tiếp với người nước ngoài.
Thêm vào đó, ngành du lịch hiện có đóng góp quan trọng vào nền kinh tế của nhiều địa phương. Với một lực lượng lao động có khả năng sử dụng tiếng Anh thành thạo, ngành du lịch của Việt Nam có thể nâng tầm chất lượng dịch vụ, xây dựng hình ảnh đẹp về một quốc gia du lịch hấp dẫn và đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của du khách.
Với tất cả những suy nghĩ trên, tôi tin việc đưa tiếng Anh trở thành ngoại ngữ chính sẽ giúp phá bỏ mọi rào cản ngôn ngữ và mở ra vô vàn cơ hội cho mọi người Việt.
Ông Bùi Quang Cường - CEO iViet: "Con đường nhanh nhất để học hỏi tri thức tiên tiến"
Ông Bùi Quang Cường cho biết, Việt Nam đang phát triển sau các nước lớn từ vài năm tới vài chục năm, thậm chí trong nhiều lĩnh vực chúng ta thua những nước lớn tới hàng trăm năm. Muốn biết tương lai chúng ta sẽ thế nào chỉ cần sang những nước phát triển và tìm hiểu.
Cách tốt nhất để các doanh nghiệp Việt Nam tiến nhanh hơn đó là sang các nước lớn học hỏi mô hình của họ. Nhiều cái chúng ta mất thời gian nghiên cứu, khám phá ra điều tưởng chừng mới lạ nhưng ở các nước phát triển họ đã đưa vào áp dụng từ lâu.
Đơn cử như những tri thức quản trị được đúc kết thành sách thì hầu hết đều có bằng tiếng Anh trước. Sau ít nhất vài năm, cuốn sách đó mới được Việt hoá cho đông đảo người Việt Nam. Khi các doanh nghiệp Việt tiếp cận được tri thức đó, thế giới họ đã bắt đầu chuyển sang một mô hình quản trị khác.
Như vậy, để tiếp cận, học hỏi nhanh tri thức tiên tiến, con đường nhanh nhất là chúng ta phải hiểu ngôn ngữ phổ thông nhất thế giới.
Ông Bùi Quang Cường - CEO iViet
Ông Bùi Quang Cường cho rằng, thế giới của chúng ta bây giờ ngày càng phẳng. Chỉ cần ngồi tại Việt Nam với 1 chiếc máy tính được kết nối internet, chúng ta hoàn toàn có thể tiếp cận những đối tác, khách hàng lớn trên toàn cầu.
Nếu chúng ta để ý có thể thấy ở Việt Nam có rất nhiều bạn trẻ 8x, 9x ngồi tại Việt Nam đã tự đặt hàng từ Trung Quốc bán sang Mỹ, Châu Âu và trở thành triệu phú đô la.
Người Việt Nam với trí tuệ và thêm sự thông thạo về ngôn ngữ sẽ giúp các doanh nghiệp Việt tự tin hơn và hoàn toàn có thể cạnh tranh sòng phẳng với nhiều dân tộc khác trên thế giới.
Ông Cường cho hay, đi lên những vùng núi cao phía bắc tổ quốc hay vào những nơi nhiều khách du lịch như phố cổ Hội An, tôi nhận thấy rất nhiều trẻ em, người già bán hàng rong mà "bắn" tiếng Anh như súng liên thanh. Trong khi đó, nhiều sinh viên đại học, thậm chí thạc sỹ được đào tạo bài bản mà khi gặp "khách tây" là "bó tay" chẳng nói lên lời.
Câu chuyện ở đây, ông Cường cho hay, ngoài việc đào tạo trong trường lớp, nhà nước cần có những chương trình tạo môi trường để toàn dân sử dụng tiếng Anh. Đơn cử như có thêm kênh truyền hình Việt bằng Tiếng Anh, có thể biến một số những nội dung thông dụng ngoài đường ở những thành phố lớn chuyển dần sang tiếng Anh, các thông tin công bố ra bên ngoài đều song ngữ... Khi có môi trường như vậy, bản năng con người sẽ tự học hỏi và thích nghi.
"Tôi tin rằng, nếu tạo được môi trường như vậy thì chỉ một thời gian nữa giao tiếp tiếng Anh và tiếp thu tri thức thế giới sẽ là chuyện nhỏ đối với các doanh nghiệp và công dân Việt Nam".
Thầy giáo tiếng Anh Juver Buencamino : "Sẽ mai một các giá trị văn hóa"
(Thầy Juver Buencamino, giáo viên với kinh nghiệm 10 năm giảng dạy tiếng Anh và Anh văn tại nhiều quốc gia châu Á như Thái Lan, Philippines, Hàn Quốc, Nhật Bản)
Đề xuất đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 của quốc gia là một ý tưởng tuyệt vời. Tuy nhiên, Việt Nam nên cân nhắc kỹ các lợi ích và tác hại của dự luật này đối với sự phát triển kinh tế quốc gia. Cá nhân tôi tin rằng, điều này mang đến lợi ích nhiều hơn.
Tiếng Anh được coi là ngôn ngữ chính trong mọi tiến trình đàm phán quốc tế, nhưng cũng không thể phủ nhận nguy cơ đe dọa đến nền văn hoá lâu đời của Việt Nam.
Việc sử dụng tiếng Anh như một công cụ phát triển tài chính có thể dẫn đến sự mai một của các giá trị và tập tục truyền thống từ thời xa xưa.
Thêm vào đó, điều này cũng khiến người Việt dễ dàng lãng quên những dấu mốc lịch sử vĩ đại của đất nước mình. Ví dụ, nếu học sinh, sinh viên quá chú trọng vào tiếng Anh, họ sẽ dành ít thời gian và sự quan tâm cho văn hoá truyền thống. Dần dần, các thế hệ sau này sẽ không còn cảm nhận rõ rệt về tính dân tộc và giá trị quê hương trong con người mình như hiện nay nữa.
Nói cách khác, nếu đứa trẻ được sinh ra và lớn lên với suy nghĩ "tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ", đứa trẻ sẽ khó có thể tự nhận thức rằng "mình là công dân Việt Nam".
Tuy nhiên, việc sử dụng tiếng Anh như một ngôn ngữ chính thức mang đến những ích lợi không thể chối cãi đối với an ninh kinh tế của quốc gia.
Trước hết, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thể dễ dàng trao đổi, chia sẻ những ý tưởng và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế tiềm năng.
Thứ hai, người Việt sẽ không còn phải đi du học và dành nhiều tiền của chỉ để có được một tấm bằng cử nhân từ một đất nước nói tiếng Anh nữa. Thay vào đó, họ có thể đầu tư phát triển hệ thống giáo dục trong nước.
Và trên hết, Việt Nam cũng sẽ có thể giảm bớt chi phí cho các quỹ học bổng chính phủ. Hãy lấy Philippines làm ví dụ. Chính phủ Philippines hỗ trợ kinh phí cho các trường học của nước mình hơn là khuyến khích học sinh, sinh viên du học nước ngoài.
Có thể dễ dàng nhận thấy hầu hết cử nhân của các trường này đều được đào tạo chuyên môn bài bản và có trình độ được quốc tế công nhận.
Vì vậy, tôi mạnh mẽ tin rằng đề xuất trên tại Việt Nam sẽ mang đến rất nhiều lợi ích to lớn.
Nhật Hồng - Hoàng Thủy ( ghi)
Theo Dân trí
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ có đang "né" trách nhiệm? Trong phần trả lời chất vấn sáng nay (31/10), khi nói về quy định trong dự thảo, trong đó quy định, sinh viên ngành đào tạo giáo viên hệ cao đẳng, trung cấp chính quy "bán hoa" lần thứ 4 sẽ bị buộc thôi học, Bộ trưởng bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ cho rằng ban soạn thảo và đặc biệt là cá nhân...