Thích ứng với thay đổi trong thời đại số
Quá trình chuyển đổi từ nền giáo dục (GD) truyền thụ sang GD kiến tạo, kết nối và thông minh dựa trên nền tảng công nghệ đang tạo ra những biến đổi sâu sắc, đồng thời đặt ra những thách thức mới cho GD hiện nay.
Trong bối cảnh này, người giáo viên phải đối mặt với thách thức không nhỏ, đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn.
Đưa công nghệ vào giáo dục phổ thông, giúp học sinh phát triển tư duy tốt hơn. Ảnh: INT.
Những thách thức phải đối mặt
TS Tôn Quang Cường – Trưởng khoa Công nghệ GD (Trường ĐH GD, ĐHQG Hà Nội), cho rằng: GD đang chứng kiến một cuộc thay đổi rất mạnh và chưa từng có.
Công nghệ số đang dần chiếm ưu thế và lan tỏa, xâm nhập khắp mọi thành tố của GD. Nền GD đã bước sang thế hệ thứ 3 theo những gì ta nhìn nhận: Truyền thụ nội dung, tương tác đa chiều với nội dung và tạo cảm xúc cho người học với nội dung!
Đồng hành với quá trình này là sự chuyển đổi số mạnh mẽ: Học liệu số, môi trường số, người học số, người dạy số… Cũng vẫn là từng ấy câu hỏi vốn tồn tại từ trước đến nay nhưng bây giờ cần nhìn nhận trong bối cảnh chuyển đổi số, đó là: Dạy cái gì, dạy ai, dạy như thế nào và dạy học với mục đích gì? Cũng như toàn bộ hệ thống lí luận dạy học được vận hành hàng mấy trăm năm qua thì giờ đây cũng đã đặt ra rất nhiều vấn đề cần thay đổi trong GD số hiện nay.
Chính vì vậy, theo TS Tôn Quang Cường, về mặt lí thuyết các thầy cô đang rất lúng túng trong lựa chọn cách tiếp cận dạy học theo xu hướng chuyển đổi số; Thiết kế và phát triển các chương trình, nội dung dạy học; Ứng dụng các giải pháp số hóa trong dạy học, kiểm tra đánh giá.
Về mặt thực tiễn, các thầy cô đang phải đối mặt với khá nhiều thách thức. Có thể nói đến là lượng thông tin, kiến thức đa dạng, khổng lồ, cập nhật liên tục và cực kì dễ dàng tiếp cận đối với người học.
Đó là các giải pháp công nghệ số (robot dạy học, công nghệ trí tuệ nhân tạo, học máy, dữ liệu lớn, khóa học trực tuyến đa diện…) ngày càng phát triển và phổ biến.
Cùng với đó, phương pháp dạy học giáp mặt trực tiếp trong những giới hạn về không gian, thời gian vật lí của lớp học trở nên yếm thế hơn so với “con đường, cách thức” tiếp nhận thông tin trong không gian mở, đa chiều, hỗn hợp (thực tế ảo, thực tế tăng cường, thực tế hỗn hợp thực – ảo).
Ngày nay, các phần mềm ứng dụng, thiết bị công nghệ dạy học cũng gia tăng chóng mặt, cho phép người học “trải nghiệm cảm xúc” mới mẻ, nhập vai đa dạng vào các không gian và nội dung dạy học và chuyển dịch giữa các hoạt động dạy học trải nghiệm ngày càng “mượt mà, liền mạch” hơn.
Video đang HOT
Sự gia tăng của nhu cầu học tập mang tính cá nhân hóa trong sự kết nối không hạn chế với các đối tượng khác nhau, mang tính hội nhập cao và xu hướng cạnh tranh mạnh giữa học tập chính thức (trong nhà trường) và học tập phi truyền thống.
“Ngoài ra, hội chứng sợ công nghệ là một hiện tượng tâm lí bình thường xuất phát từ chính bên trong một số người gây ra xu hướng e dè, ngần ngại. Đây cũng là một khó khăn giáo viên cần phải vượt qua” – TS Tôn Quang Cường nhấn mạnh.
Làm gì để thích ứng với sự thay đổi?
Công nghệ dạy học đòi hỏi sự kết hợp hài hòa giữa 3 yếu tố: Sản phẩm, quy trình và con người. Rất may, các thầy cô hiện nay được “tiếp cận và sở hữu” những giải pháp, sản phẩm công nghệ mới.
Theo thống kê trên thế giới, mỗi ngày có khoảng hơn 4.000 ứng dụng cho GD được xuất hiện, trong số đó hơn 2/3 là miễn phí. Hiện, có khoảng hơn 2.400 các giải pháp và phần mềm ứng dụng trong GD được giáo viên toàn thế giới tin dùng. Một khả năng cao là phần lớn thầy cô cũng có mong muốn, nhiệt huyết áp dụng công nghệ trong dạy học.
“Tuy nhiên, để điều này trở thành hiện thực, thầy cô cần tư duy lại vai trò của bản thân, cách thức tổ chức, quản lý việc dạy học trong bối cảnh GD số: Là người thúc đẩy, tạo cảm hứng và hỗ trợ cho học sinh, khuyến khích học sinh học tập với sự trợ giúp của công nghệ. Đồng thời, tạo tâm thế sẵn sàng đổi mới, tiếp cận công nghệ dạy học bằng việc tập thói quen tìm ra ‘khoảng trống’ cho công nghệ xâm nhập vào quá trình dạy học.
Cùng với đó, tham gia xây dựng ý tưởng và phát triển giải pháp số trong dạy học” – TS Tôn Quang Cường cho biết thêm.
Tuy nhiên, ngoài nỗ lực tự thân, thầy cô cần được hỗ trợ, giúp đỡ để có thể đáp ứng yêu cầu mới. Trong đó có việc đầu tư chính sách qua áp dụng các mô hình dạy học theo hướng chuyển đổi số, tiếp cận công nghệ, thiết kế xây dựng chương trình nhà trường tích hợp công nghệ, cho phép sử dụng thiết bị cầm tay kết nối trong lớp học/nhà trường;
Xây thiết bị công nghệ trong dạy học dựng hệ thống tổng thể hỗ trợ dạy học trên nền tảng công nghệ; Khuyến khích giáo viên sử dụng thiết bị công nghệ trong dạy học. Các thầy cô cũng cần được tăng cường năng lực thông qua bồi dưỡng, tập huấn, cập nhật thường xuyên về chỉ số đáp ứng công nghệ thông tin và thiết bị công nghệ hiện đại.
Một vấn đề khá quan trọng được TS Tôn Quang Cường đề cập đến là xây dựng và phát triển các chương trình đào tạo: Đào tạo mới về nhân lực công nghệ GD, quản trị các công nghệ GD mới; Đổi mới chương trình đào tạo giáo viên theo hướng nhà GD – nhà sử dụng và phát triển công nghệ.
“Từ 2017 đến nay, Trường ĐH GD đã triển khai đồng loạt, có hệ thống các giải pháp triển khai và phát triển công nghệ GD thông minh và GD mở xây dựng nền tảng, cơ sở lí luận cho công nghệ GD. Một trong những biểu hiện về quá trình chuyển đổi đáp ứng yêu cầu, xu hướng ‘GD thông minh’ tại trường là thành lập khoa Công nghệ GD, phát triển một số ngành đào tạo mới trên nền tảng ứng dụng công nghệ và cơ chế phối thuộc giữa các đơn vị thành viên trong ĐHQG Hà Nội.
Lần đầu tiên chương trình Quản trị Công nghệ GD được thực hiện theo hướng áp dụng các công nghệ mới trong GD, dạy học tích cực, tăng cường thực hành, dạy học dựa trên nghiên cứu và trải nghiệm thực tế, khuyến khích tạo ra sản phẩm đầu ra có khả năng ứng dụng cao; Tăng thời gian cho sinh viên tự nghiên cứu, thực hiện các dự án học tập” – TS Tôn Quang Cường chia sẻ.
Hải Bình
Theo GDTĐ
Không ghi hình thức đào tạo, xếp loại trên văn bằng: Phù hợp với thông lệ quốc tế
Dự thảo "Thông tư quy định chi tiết nội dung chính ghi trên văn bằng giáo dục đại học" đang được dư luận quan tâm góp ý; đặc biệt việc không ghi hình thức đào tạo và ghi xếp loại trên văn bằng.
Đơn vị tuyển dụng hoàn toàn có thể yêu cầu người dự tuyển nộp bảng điểm, qua đây, xem xét kỹ hơn về quá trình học của người học. Ảnh minh họa
Rà soát lại nội dung ghi trên văn bằng
Góp ý cho dự thảo Thông tư nói trên, TS Tôn Quang Cường - Chủ nhiệm Khoa Công nghệ Giáo dục, Trường ĐH Giáo dục (ĐHQG Hà Nội) - nhận định: Việc rà soát lại nội dung ghi trên bằng tốt nghiệp đại học, thạc sĩ, tiến sĩ là cần thiết với lý giải:
Điểm qua một số bằng tốt nghiệp của các trường mới thấy sự không thống nhất về format, nội dung chi tiết chính, mỗi nơi ghi một kiểu, mỗi cấp ghi một kiểu. Đơn cử, thật khó hiểu nếu bằng cử nhân ghi: "Bác sĩ Răng hàm mặt", "Thạc sĩ Răng hàm mặt"... Như vậy, bác sĩ được hiểu là ngang với cử nhân; vậy thạc sĩ có hơn bác sĩ không? Đây là 2 phạm trù khác nhau. Các nước có sự đa dạng nhưng về cơ bản nội dung ghi trên bằng rất ngắn gọn, dễ hiểu: Ai cấp cho ai, trình độ nào, ngành gì...
Theo TS Tôn Quang Cường, chúng ta bị ảnh hưởng phong cách của Liên Xô (cũ). Trước đây, các trường đại học đào tạo đơn ngành, nên học xong ngành nào được vào làm việc trong lĩnh vực đó, theo đúng ngành được đào tạo. Trong bằng tốt nghiệp đại học không có bậc tốt nghiệp mà thường ghi là đã hoàn thành khóa đào tạo ngành "...", được công nhận làm nghề "....".
Cách ghi và hiểu nội dung theo kiểu này ít nhiều ảnh hưởng đến chuyện "danh xưng tốt nghiệp" trùng với "danh xưng nghề nghiệp" (hoặc vị trí việc làm) mà thực tế của ta đang mắc phải. Từ việc có bằng đào tạo theo ngành/chuyên ngành đến khi được làm việc theo đúng ngành/chuyên ngành đào tạo còn khá xa trong thực tế. Tốt nghiệp sư phạm thì gọi là "cử nhân sư phạm", Y thì gọi là "cử nhân y khoa", tương tự với "cử nhân luật", "cử nhân kĩ thuật"... chứ không nên gán ngay "bác sĩ", "luật sư", "kĩ sư"....
Về việc không nên ghi hình thức đào tạo, TS Tôn Quang Cường cũng hoàn toàn đồng ý với các lý do:
Thứ nhất: Cần loại bỏ sự phân biệt (thậm chí kì thị) về hình thức đào tạo. Vấn đề chất lượng đào tạo có liên quan nhưng không phải là kết quả bản chất của loại hình chính qui hay không chính qui (vừa làm vừa học, từ xa, mở...). Việc loại bỏ nội dung ghi hình thức đào tạo sẽ tạo nên cơ hội công bằng, mang tính cạnh tranh tích cực trong việc nâng cao chất lượng nội tại của mỗi trường, mỗi chương trình đào tạo; đồng thời mở rộng cơ hội tìm kiếm việc làm đầu ra cho sinh viên tốt nghiệp.
Thứ 2: Phù hợp với thông lệ quốc tế (nhất là ghi dịch, chuyển đổi bằng để đi học tiếp ở nước ngoài).
Thứ 3: Tạo cơ hội thúc đẩy việc học tập thường xuyên, suốt đời; động viên khuyến khích các nhà trường chú ý đảm bảo chất lượng trong đào tạo, mạnh dạn áp dụng các phương thức đào tạo mới phù hợp với xu thế, chịu trách nhiêm về sản phẩm đầu ra...
"Thật nực cười nếu như sau 3 năm, ứng viên đi xin việc và giơ tấm bằng ra có ghi "Loại xuất sắc". Có thể tham khảo một số nước: trên bằng có ghi: Bằng này cấp kèm với bảng điểm; cá biệt, có nơi ghi: Bằng không có giá trị nếu không đi kèm bảng điểm..." - TS Tôn Quang Cường chia sẻ.
Cũng đồng ý không nên ghi đạt xếp loại gì trên bằng, TS Tôn Quang Cường đưa lý giải bằng loạt "câu hỏi": Thực tế, bằng thạc sĩ đã không ghi thì tại sao bằng cử nhân cứ phải ghi? Ghi để làm gì? Trên thực tế, nhà tuyển dụng luôn quan tâm đến những năng lực thật của ứng viên chứ không phải là kết quả đạt loại gì khi tốt nghiệp.
Các loại văn bằng cần thống nhất theo chuẩn. (Ảnh minh họa)
Không nhất thiết phải ghi xếp loại
PGS.TS Hoàng Minh Sơn - Hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa Hà Nội - cho rằng: Việc bỏ ghi xếp loại trên văn bằng giáo dục đại học là phù hợp với quy định trong Luật và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, văn bằng giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ và văn bằng trình độ tương đương. Người học hoàn thành chương trình đào tạo, đạt chuẩn đầu ra của trình độ đào tạo theo quy định, hoàn thành nghĩa vụ, trách nhiệm của người học, được hiệu trưởng cơ sở giáo dục đại học cấp văn bằng ở trình độ đào tạo tương ứng. Không nhất thiết phải ghi xếp loại trên văn bằng, nhưng như vậy không có nghĩa là không có sự xếp loại kết quả học tập của người học.
Việc xếp loại được thể hiện trong bảng điểm. Bảng điểm mới thể hiện được lực học của người học ở từng môn khác nhau. Thường thì khi nộp hồ sơ xin việc hay dự tuyển vị trí công việc, người học sẽ nộp bằng cùng với bảng điểm. Đơn vị tuyển dụng hoàn toàn có thể yêu cầu người dự tuyển nộp bảng điểm, qua đây, xem xét kỹ hơn về quá trình học của người học.
Tôi cũng muốn nói thêm, lâu nay chúng ta vẫn kêu về việc sính bằng cấp, quá coi trọng bằng cấp mà coi nhẹ năng lực thực sự, việc xóa bỏ ghi xếp loại trên văn bằng sẽ dần xóa bỏ thói quen đánh giá năng lực qua văn bằng, để đánh giá thông qua năng lực làm việc, sự phù hợp với vị trí việc làm mà người tuyển dụng mong muốn. Doanh nghiệp hiện nay không còn tuyển dụng chỉ dựa vào văn bằng nữa mà thông qua đánh giá năng lực.
Theo dự thảo mà Bộ GD&ĐT vừa ban hành, nội dung chính ghi trên văn bằng giáo dục đại học chỉ còn 10 mục; không còn phân loại chính quy hay vừa học vừa làm, loại khá hay giỏi; không còn những cách gọi như "bằng kỹ sư", "bằng bác sĩ"... Về cơ bản, PGS.TS Đào Đăng Phượng - Hiệu trưởng Trường ĐHSP Nghệ thuật Trung ương - cho biết đồng tình với thay đổi trong dự thảo này.
Ông lý giải: Trước hết, việc không phân loại chính quy hay vừa học vừa làm... là theo quy định trong Luật. Đào tạo chính quy, vừa làm vừa học, đào tạo từ xa chỉ là hình thức tổ chức đào tạo khác nhau. Dù theo hình thức nào, sinh viên cũng phải học hết chương trình đào tạo theo quy định để tốt nghiệp - người học phải tích lũy đủ các tín chỉ của chương trình đào tạo mới được cấp bằng. Vấn đề là các trường tổ chức, quản lý đào tạo như thế nào để các hình thức đào tạo có chất lượng như nhau. Do đó, không cần ghi cụ thể hình thức đào tạo trên văn bằng theo luật giáo dục sửa đổi mới ban hành là hợp lý.
Về việc ghi xếp loại, dù trên văn bằng không cụ thể loại "giỏi", "khá", "trung bình"... nhưng những thông tin này đã có, cụ thể trên bảng điểm của sinh viên. Mỗi sinh viên ra trường đều được cấp bằng và kèm theo bảng điểm. Thực tế, không cơ quan, doanh nghiệp nào khi tuyển dụng chỉ yêu cầu cần mỗi văn bằng mà phải kèm theo cả bảng điểm, thậm chí còn tổ chức thi tuyển, phỏng vấn trực tiếp theo thực lực của sinh viên. Do đó, giảm bớt thông tin về xếp loại trên văn bằng cũng là chấp nhận được.
"Chưa kể, người học khi tốt nghiệp, bên cạnh bằng, còn được cấp đồng thời cả phụ lục văn bằng. Ở phụ lục này có đầy đủ thông tin quá trình đào tạo, kết quả học tập, hình thức đào tạo... của người học" - PGS Đào Đăng Phượng cho hay.
Thảo Đan
Theo GDTĐ
Thủ tướng Malaysia khẳng định với sinh viên Đại học FPT: Chúng tôi đang tìm kiếm nguồn nhân lực AI "Không nên ăn quá nhiều" là lời khuyên của Thủ tướng Malaysia đến sinh viên Đại học FPT khi đến thăm làng Phần mềm FPT, Hà Nội ngày 28/8. Thủ tướng cũng gửi gắm thông điệp về cách sống: những thay đổi nhỏ có thể giúp giải quyết nhiều vấn đề trong xã hội. Được vị Thủ tướng 94 tuổi của quốc gia...