Thị trường bất động sản liệu có xuất hiện bong bóng?
Theo các chuyên gia trong ngành, thị trường BĐS đang có nhiều yếu tố hỗ trợ từ kinh tế vĩ mô, bên cạnh đó, lãi suất cho doanh nghiệp, người mua nhà vay giảm cũng là nhân tố tích cực tác động đến thị trường BĐS.
Dòng vốn của các nhà đầu tư ngoại vẫn đang sẵn sàng để đổ vào thị trường bất động sản Việt Nam
Bà Nguyễn Thị Vân Khanh, Giám đốc cấp cao thị trường vốn JLL Việt Nam cho rằng, dòng vốn FDI vào BĐS đang đứng thứ 4.
Dòng vốn của các nhà đầu tư ngoại vẫn đang sẵn sàng để đổ vào thị trường BĐS Việt Nam. Tuy nhiên hoạt động M&A cũng có những rào cản nhất định nên thị trường chững lại dù nhiều nhà đầu tư vẫn muốn tham gia vào thị trường.
“Chúng tôi trao đổi với nhiều NĐT họ cho biết sẵn sàng tham gia vào thị trường BĐS Việt Nam, thời điểm tháng 2, tháng 3 khi đang làm việc tại nhà do tình hình dịch bệnh thì vẫn nhận được những cuộc gọi quan tâm về thị trường BĐS Việt Nam”, bà Khanh cho hay.
Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc là những doanh nghiệp quen thuộc với thị trường BĐS tin rằng đây chỉ là đợt điều chỉnh tạm thời. Theo bà Khanh, họ vẫn tin tưởng vào chính sách và kinh tế vĩ mô, thị trường Việt Nam vẫn có nhiều tiềm năng tăng trưởng so với các thị trường khác ở khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra, họ cũng mong muốn phía nhà nước đẩy nhanh quá trình phê duyệt dự án để tham gia vào thị trường.
Theo bà Khanh, phần lớn các doanh nghiệp BĐS gặp nhiều khó khăn, một số NĐT tham gia vào thị trường phải thực hiện những giao dịch kéo dài 2-3 năm nhưng giao dịch chưa hoàn tất dù dòng tiền đã rất sẵn sàng vì gặp khó khăn bởi quy trình phê duyệt hiện tại. Việc rà soát chặt chẽ thủ tục pháp lý của các dự án góp phần làm tăng tính minh bạch thị trường nhưng cũng ảnh hưởng đến dòng vốn FDI vào Việt Nam.
NĐT nước ngoài vẫn đang rất tự tin với thị trường BĐS Việt Nam. Còn ở góc độ người mua nhà, dù họ có tâm lý thận trọng nhưng nhiều NĐT đang quan tâm đến thị trường sơ cấp (mua từ chủ đầu tư) và trên cả thị trường thứ cấp nhiều người mua nhà vẫn đang tìm kiếm các sản phẩm có giá hợp lý mua để ở.
Lãi suất ngân hàng ngày càng thấp
Theo các chuyên gia trong ngành, thị trường BĐS hiện nay khó khăn nhưng trong nguy khi nào cũng có cơ. Việt Nam đang là quốc gia kiểm soát tốt dịch bệnh.Xu hướng chuyển dịch công xưởng của thế giới về Việt Nam cũng đang ngày càng rõ.
Video đang HOT
Bên cạnh đó, hiện nay lãi suất ngân hàng ngày càng thấp. Điều này có lợi cho tất cả các ngành nghề kinh doanh ổn định trở lại. Tiêu dùng của người dân sẽ tăng lên. Điều này sẽ tác động đến thị trường BĐS.
Làn sóng giảm mạnh lãi suất huy động đang diễn ra không chỉ ở các ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân mà cả 4 ngân hàng thương mại có vốn nhà nước cũng đang có động thái giảm lãi suất cho vay, tiết kiệm.
Gần đây, các ngân hàng điều chỉnh giảm lãi suất tiết kiệm ngắn hạn. Có nơi chỉ trả 3%/năm cho kỳ hạn 1 tháng tại quầy. Lãi suất tiền gửi hiện ở mức 3,5-4,25% với kỳ hạn lãi suất dưới 6 tháng; từ 4,4-6,7% với kì hạn trên 6 tháng. So với thời điểm cuối năm 2019, vùng lãi suất này thấp hơn gần 1%/năm với kì hạn dưới 6 tháng và gần 2%/năm kỳ hạn 6 tháng trở lên.
Trước tác động giảm lãi suất tiết kiệm, cho vay, nhiều NĐT đã đặt lên bàn cân để cân nhắc các kênh đầu tư là vàng, tiết kiệm hay BĐS. Trước đây, nếu lãi suất huy động cao thường người dân sẽ chọn kênh gửi tiết kiệm cho an toàn. Còn nhiều người khác vẫn hướng vào kênh đầu tư BĐS vì khả năng sinh lợi về trung, dài hạn sẽ tốt hơn.
Theo các chuyên gia, việc giảm lãi suất ngân hàng là một tín hiệu tích cực đối với thị trường BĐS trong lúc khó khăn cho dù tác động từ yếu tố này không quá mạnh mẽ.
Thị trường không xuất hiện dấu hiệu bong bóng
Ông Võ Huỳnh Tuấn Kiệt, Giám đốc bộ phận tiếp thị dự án nhà ở CBRE Việt Nam phân tích, nhiều NĐT đặt ra câu hỏi hiện nay là thị trường BĐS có thể gặp tình huống như năm 2007-2008 mức giá lao dốc hay không? Để trả lời câu hỏi này phải nhìn lại thị trường thời điểm năm 2007-2008 bong bóng BĐS xảy ra ở thị trường thứ cấp. Giá bán được đẩy lên nhiều ở thị trường thứ cấp và nhiều nhà đầu tư dùng đòn bẩy tài chính quá nhiều.
Còn hiện tại, mức giá được quyết định bởi thị trường sơ cấp (các chủ đầu tư làm ra sản phẩm để bán). Ngay cả một số khu vực như Thủ Thiêm, giai đoạn 20015-1016 giá bán 2.800 USD-2900 USD/m2 đã cao nhưng nay đã tăng 60.00-7.000 USD/m2, xuất phát ở thị trường sơ cấp chứ không phải thứ cấp.
Cùng quan điểm, bà Nguyễn Thị Vân Khanh,Giám đốc cấp cao thị trường vốn JLL Việt Nam cho rằng, thị trường giai đoạn 2019-2020 khác hoàn toàn so với thời điểm 2008-2009 khi thị trường xuất hiện bong bóng tăng trưởng ảo vì thời điểm đó nhiều doanh nghiệp đi vay và thế chấp tài sản ảo, chưa đủ pháp lý. Vì vậy, khi có nợ xấu, Ngân hàng muốn xử lý nợ xấu nhưng không thể thực hiện, chủ doanh nghiệp không thể trả được nợ, nhà đầu tư nước ngoài muốn tham gia mua lại dự án cũng không thể thực hiện được. Đó là sự bế tắc của cả ba bên.
Sau đó 2013-1019 thị trường bắt đầu phục hồi, nhiều chủ đầu tư bắt tay với các nhà phát triển để thực hiện dự án. Hiện nay, trao đổi với phía Ngân hàng, nhiều nơi vẫn có nợ xấu được thế chấp bằng BĐS nhưng khi xử lý lại gặp khó khăn về pháp lý. Điều này cũng ảnh hưởng rất lớn đến dòng chảy của vốn FDI vào Việt Nam.
Ông Đinh Thế Hiển, chuyên gia tài chính cũng cho hay, thị trường BĐS hiện nay khác hơn so với năm 2008 khi xuất hiện các cục máu đông nợ xấu là do thời điểm đó hàng loạt ngân hàng nhỏ được thành lập và huy động vốn bằng mọi cách mà sân sau chính là các công ty BĐS. Do đó, khi thị trường đóng băng thì hình thành các khối nợ xấu.
Còn giai đoạn 2014 cho tới nay thì hệ thống ngân hàng đã đã được chuẩn hoá. Dù một số doanh nghiệp khó khăn nhưng vẫn chưa hình thành nợ xấu. Cộng thêm ảnh hưởng của dịch bệnh covid nên nhiều doanh nghiệp được giãn nợ nên nhìn chung báo cáo vẫn chưa có nợ xấu.
Chính phủ tiêu dùng và đầu tư như thế nào?
Thay vì tăng tiêu dùng, Chính phủ nên theo hướng tăng cường hiệu quả đầu tư để tiền thực sự đến được với sản xuất và tạo tăng trưởng GDP.
Ảnh minh họa.
Trước tác động của Covid-19, Chính phủ kiên định thực hiện "mục tiêu kép" cho năm nay: đẩy lùi dịch bệnh và phát triển kinh tế.
Trong phát triển kinh tế, một trong những yêu cầu Chính phủ đặt ra mạnh mẽ thời gian qua và từ nay đến cuối năm là hoàn thành chỉ tiêu giải ngân đầu tư công.
Cùng đó, kích cầu nền kinh tế cũng là "đề bài" được nêu tại các phiên họp thường kỳ gần đây. Trong kích cầu, tiêu dùng của Chính phủ được xem là một lực đẩy, bao gồm đầu tư công, để cùng tạo hiệu ứng.
Nhưng, Chính phủ đang tiêu dùng và đầu tư như thế nào và nên như thế nào? BizLIVE xin giới thiệu bài viết và góc nhìn của TS. Bùi Trinh, Viện Nghiên cứu Phát triển Việt Nam.
GDP nhìn từ góc độ chi tiêu mà nhiều người gọi là "tổng cầu" thực ra là tổng cầu cuối cùng (final demand expenditure). Về nguyên tắc của Hệ thống các tài khoản Quốc gia (System of National Accounts - SNA) của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam áp dụng từ năm 1993 với Quyết định 183/TTg của Thủ tướng Chính phủ, tổng cầu bao gồm cầu trung gian (intermediate demand) và cầu cuối cùng.
GDP nhìn từ phía chi tiêu (phía cầu) bao gồm tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình, chi tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ, đầu tư và xuất khẩu thuần hàng hóa và dịch vụ.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê những năm qua về các yếu tố của tổng cầu cuối cùng cho thấy, tỷ lệ tiêu dùng cuối cùng của dân cư so với GDP của Việt Nam trong 10 năm qua chiếm khoảng 68% (trong khi đó tỷ lệ này của Trung Quốc chỉ là 39%, Hoa Kỳ 68%).
Tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ so với GDP là 6% (Trung Quốc 14%, Hoa Kỳ 10%); đầu tư so với GDP là 30% (Trung Quốc là 45%, Hoa Kỳ 25%).
Tỷ lệ tiêu dùng cuối cùng so với GDP của Trung Quốc chỉ là 39%, như vậy để bù khoản thiếu hụt trong tiêu dùng cuối cùng nhưng vẫn muốn có tăng trưởng cao về GDP, Trung Quốc phải tung ra một lượng đầu tư cực lớn chiếm tới 45% GDP.
Xét về xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ chỉ có Trung Quốc có thặng dư thương mại. Việt Nam và Hoa Kỳ thâm hụt thương mại đối với xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Điều này cho thấy tiêu dùng cuối cùng của dân cư đóng vai trò quan trọng trong quy mô GDP của Việt Nam.
Ngoài ra, tính toán từ các mô hình cân bằng tổng thể cho thấy trong các yếu tố của cầu cuối cùng như tiêu dùng cuối cùng của dân cư, tiêu dùng của Chính phủ, đầu tư và xuất khẩu thì tiêu dùng cuối cùng của dân cư lan tỏa tốt nhất đến giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm của nền kinh tế Việt Nam.
Xét rộng hơn, nguồn lực thực sự của một quốc gia không phải chỉ có GDP mà còn các chỉ tiêu vĩ mô khác như thu nhập quốc gia (GNI), thu nhập quốc gia khả dụng (GNDI) và tiết kiệm (saving) của nền kinh tế. Tiết kiệm là nguồn lực cơ bản để tái đầu tư, nếu nguồn lực thiếu thì phải đi vay. Tiết kiệm của nền kinh tế được xác định bằng GDP thu nhập sở hữu thuần chuyển nhượng thuần chuyển nhượng vốn - (trừ) tiêu dùng của dân cư và tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ.
Hiện nay thu nhập sở hữu thuần luôn là số âm. Theo số liệu thông kê mới cập nhật năm 2019, luồng tiền chẩy ra nước ngoài thông qua chi trả sở hữu (cơ bản của khối FDI) khoảng 16 tỷ đô la Mỹ, rất may mắn là năm 2019 Viết Nam cũng nhận được khoản chuyển nhượng hiện hành (kiều hối) khoảng 16,7 tỷ đô la Mỹ để bù vào khoản FDI chuyển tiền về nước mẹ.
Khi nguồn lực thực sự của nền kinh tế thiếu hụt sẽ dẫn đến vay mượn. "Sách trắng về doanh nghiệp Việt Nam 2020" cho thấy, nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp Nhà nước rất cao và có xu hướng tăng lên, năm 2011 nợ phải trả so với vốn chủ sở hữu của khu vực này là 3,1/1 thì đến năm 2018 đã là 4,2/1.
Năm 2020 do ảnh hưởng của dịch Covid-19 trên toàn thế giới có thể lượng kiều hối vào Việt Nam không còn như năm 2019; ước tính tiết kiệm so với GDP chỉ còn khoảng 20%, trong khi để duy trì tăng trưởng GDP đầu tư vẫn cần phải chiếm khoảng 33% GDP.
GDP là chỉ tiêu rất sơ khởi trong các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, việc tăng chi tiêu Chính phủ có thể làm tăng GDP nhưng lại làm giảm nguồn lực thực sự của nền kinh tế.
Chi tiêu của Chính phủ bao gồm chi tiêu dùng cuối cùng (một phần trong chi thường xuyên) và chi đầu tư công. Chi tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ được tính vào GDP là các khoản chi duy trì bộ máy.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, có độ lệch rất lớn giữa vốn đầu tư phát triển toàn xã hội và tích lũy tài sản. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội là khoảng tiền của xã hội cho mục đính đầu tư và tích lũy tài sản được hiểu là lượng tiền cho đầu tư đến được với sản xuất để tạo ra tài sản cố định và thay đổi tồn kho.
Năm 2019 vốn đầu tư phát triển toàn xã hội chiếm trong GDP là 33% nhưng tích lũy tài sản chỉ chiếm trong GDP khoảng 26%. Như vậy chính sách của Chính phủ nên theo hướng tăng cường hiệu quả đầu tư để lượng tiền nhằm mục đích đầu tư thực sự đến được với sản xuất để tạo tăng trưởng GDP, để đảm bảo phát triển bền vững Chính phủ không nên là "người tiêu dùng lớn nhất".
World Bank: Dự trữ ngoại hối tăng thêm 12 tỷ chứng tỏ khả năng phục hồi của nền kinh tế Việt Nam Vào cuối tháng 8, dự trữ ngoại hối của NHNN là 92 tỷ USD, tăng so với mức 80 tỷ USD vào cuối tháng 12. Mặc dù mức tăng này không cao như mức tăng cùng kỳ năm 2019, nhưng nó chứng tỏ khả năng phục hồi của nền kinh tế Việt Nam. Trong báo cáo Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt...