Thầy giáo trạng nguyên dạy nhiều học trò đỗ tiến sĩ
8 năm dạy học, trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước, sau này đỗ cao trong các kỳ thi. Trong đó, ba người đỗ tiến sĩ.
Theo sách Hoàng Lê nhất thống chí và Hội đồng Ngô tộc Việt Nam, Ngô Miễn Thiệu tự Thuần Nhã, hiệu là Trúc Khê (sinh năm 1499, chưa rõ năm mất) là người làng Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Ông sinh ra trong gia đình có truyền thống nho học, nổi tiếng thông minh, mẫn tiệp. Năm 1518, Ngô Miễn Thiệu đỗ trạng nguyên khoa thi Mậu Thìn, làm quan nhà Lê được 9 năm tới chức Ngự sử, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, tước Trình Khê bá.
Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê năm 1527, ông không chịu ra làm quan nhà Mạc mà về quê mở trường dạy học.
Sau khi về quê, con cháu tới chào, có người hỏi sao không ở lại làm quan mà lại về quê sống cảnh điền viên. Ông nói: “Ta làm tôi nhà Lê, cha là bảng nhãn, con trạng nguyên, nếu nay theo Mạc thì chẳng khác nào Triệu Phổ, mặc áo, đội mũ nhà Chu mà đứng trong triều vua nhà Tống”.
Tranh minh hoạ: Sỹ Hoà/Báo Bình Phước.
Theo sử sách lưu truyền, Ngô Miễn Thiệu không chỉ là bậc quan tài năng mẫn cán, mà còn là người thầy mẫu mực, trí tuệ và đức độ. Trong 8 năm, ông đã đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước, sau này đỗ cao trong các kỳ thi.
Tiêu biểu là hai con trai của ông gồm Ngô Diễn đỗ tiến sĩ khoa Canh Tuất năm 1550 và Ngô Dịch đỗ tiến sĩ khoa Bính Thìn năm 1556. Người con nuôi Nguyễn Gia Mưu đỗ tiến sĩ năm 1559.
Tài liệu xưa ghi lại rằng Nguyễn Gia Mưu quê làng Nghĩa Lập (Tiên Sơn, Bắc Ninh), một dòng họ lớn có truyền thống hiếu học. Từ nhỏ, Nguyễn Gia Mưu đã nổi tiếng thông minh và ham học, song vì nhà nghèo và bố mất sớm nên không có tiền đèn sách.
Nhờ sự giúp đỡ của người chú ruột là tiến sĩ Nguyễn Hữu Thường và khát vọng mong con thành đạt của mẹ, Nguyễn Gia Mưu có cơ hội được học với thầy Ngô Miễn Thiệu.
Video đang HOT
Chuyện xưa kể lại khi đỗ tiến sĩ vinh quy về làng, ông nghè Nguyễn Hữu Thường bắt cháu ruột của mình là Nguyễn Gia Mưu ra đường cái quan cáng võng bà quan nghè về quê bái tổ. Uất ức vì sự đối xử của người chú ruột, Nguyễn Gia Mưu cáng võng vợ quan nghè Nguyễn Hữu Thường về đến đầu làng, rồi bỏ quê về ở Tam Sơn, xin học thầy Ngô Miễn Thiệu.
Thấy học trò đã cao tuổi (Nguyễn Gia Mưu đã 28 tuổi), thầy giáo liền thử ý chí và tinh thần hiếu học của Nguyễn Gia Mưu bằng việc ra điều kiện: Phải mang xôi trâu, nén bạc đến nộp cho thầy mới được theo học. Không còn cách nào khác, Gia Mưu lẻn về nhà thưa với mẹ.
Thương con, người mẹ đem việc này bàn với quan nghè Nguyễn Hữu Thường. Thấy cháu quyết chí tiến thủ bằng con đường hoạn lộ, người chú nhận lời giúp đỡ tận tình nhưng giấu kín không cho cháu biết, để nuôi dưỡng lòng quyết tâm học tập của Nguyễn Gia Mưu.
Với sự giúp đỡ trực tiếp của thầy Ngô Miễn Thiệu, sau 5 năm miệt mài kinh sử, Nguyễn Gia Mưu đỗ Hương cống và đến năm 37 tuổi ông đỗ tiến sĩ.
Hàng trăm năm đã trôi qua, sự liêm khiết, chính trực và công tâm của thầy giáo – trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu – vẫn là bài học vô giá cho các thế hệ nhà giáo hôm nay và mãi mãi về sau đối với sự nghiệp đào tạo nhân tài cho đất nước.
Theo Zing
'Trạng Lợn' cầu mưa khiến nhà Minh khâm phục
Nguyễn Nghiêu Tư đỗ trạng nguyên khoa thi Mậu Thìn niên hiệu Thái Hòa 6 (1448), đời vua Lê Nhân Tông. Bằng tài năng của mình, ông khiến nhà Minh nể phục khi đi sứ.
Theo sử liệu và tư liệu của thôn Hiền Lương, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư (chưa rõ năm sinh, năm mất) có tên húy là Nguyễn Trư, hiệu là Tùng Khê, người thôn Minh Lương, nay là thôn Hiền Lương, xã Phù Lương, huyện Quế Võ.
Ông là người thông minh sáng dạ, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải đi làm thuê cho nhà giàu ở thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du. Tại đây, ông được tiến sĩ Vũ Mộng Nguyên (làm quan triều Lê sơ) quý mến nên đón về nuôi dạy.
Không phụ công nuôi dạy của thầy, Nguyễn Nghiêu Tư đỗ trạng nguyên khoa thi Mậu Thìn niên hiệu Thái Hòa 6 (1448), đời vua Lê Nhân Tông.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, tương truyền lúc nhỏ, Nguyễn Nghiêu Tư có cha làm nghề thịt lợn, lại đẻ vào tháng 10, tức tháng Hợi, nên thường gọi là "cậu Lợn".
Trong kỳ thi đình, vua thân ra đề văn sách, hỏi về lễ nhạc, hình, chính, Nguyễn Nghiêu Tư đỗ trạng nguyên, Trịnh Thiết Trường đỗ bảng nhãn, Chu Thiêm Uy đỗ thám hoa lang. Với những đóng góp to lớn, ông được gọi bằng cái tên trìu mến: "Trạng Lợn".
Chuyện kể rằng năm 1459, ông được giao đi sứ sang nhà Minh. Khi vào yết kiến, vua Minh muốn thử tài sứ thần nên ngầm sai trang hoàng cung quán lịch sự, rồi cho viết hai chữ "kính thiên" treo ở giữa.
Sau đó, vua Minh lại cho bày đôi sập thất bảo rất cao, xung quanh bày nghi vệ sang trọng, như chỗ giường ngự của thiên tử để xem trạng có dám ngồi đó không?
Tượng trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư tại đền thờ ở Bắc Ninh. Ảnh: Báo Bắc Ninh.
Khi sắp đến yến tiệc, họ đưa trạng và phó sứ dạo thăm cung điện rồi mới đưa đến đấy. Trạng bèn bảo phó sứ cùng ngồi lên sập thất bảo. Thấy vậy, một viên quan nhà Minh ra hạch rằng: "Cớ sao sứ lại vô lễ đến như vậy? Không trông lên trên kia xem, chỗ này là chỗ nào mà dám nhảy lên ngồi chễm chệ ở đấy?".
Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư bình thản trả lời: "Dám thưa, ngài lấy tội gì mà cho sứ thần là ngạo? Tôi thấy biển đề chữ 'kính thiên', chiết tự ra là 'kính dị nhân' (chữ thiên là trời, tách ra hai chữ nhị nhân là hai người) thực hẳn là ý bản quốc muốn đem cái ngôi này mà hậu đãi sứ thần xa lại. Ngài dạy thế, chúng tôi quyết không chịu.
Vả nghe cổ nhân có nói: Đãi người phương xa cốt lấy bụng thực. Tôi nghe thánh triều lấy thành tín đãi người ngoại quốc. Thế mà, người phương xa tới lại đem cái bụng trí thuật làm oai. Tôi sợ người ta nghe tiếng, dẫu có lòng thực hướng mộ, cũng sinh nghi mà không lại nữa".
Viên quan nhà Minh thấy trạng nói như đã rõ ruột gan từ trước, vội vàng lạy tạ mà rằng: "Xin quý ngài xá lỗi! Nghĩ là buổi ban đầu, thử xem có phải bậc tài giỏi không thôi. Nhưng quý ngài quả là bậc thông minh, đã giỏi mà còn biết trước được như thế còn hề chi?".
Một lần, khi sang nước ta, sứ nhà Minh muốn đọ trí, so tài bèn xin với vua Lê cho mở hội đánh cờ. Vua Lê lo ngại nên cho mời "Trạng Lợn" đến để hỏi mẹo.
Trạng thưa: "Cứ phúc thư nhận lời, định ngày hội đấu. Hạ thần xin dâng người cao cờ. Người ấy họ Nguyễn, hiện giữ chức Thị lang".
Đến ngày hội đấu, trạng xin đem bàn cờ đặt trong sân rồng để vua Lê đọ trí với sứ nhà Minh và ghé tai vua "Cứ thế, cứ thế", rồi đem lọng dùi thủng một lỗ, sai Thị lang đứng che lọng cho vua.
Đến lúc thi đấu, Thị lang xoay lọng, bóng nắng chiếu vào chỗ nào thời vua nhấc quân đi chỗ đấy. Quả nhiên, sứ nhà Minh bị chiếu dồn, không nước gỡ, phải bó gối, chịu thua.
Thua keo này bày keo khác, sứ nhà Minh bèn nghĩ mẹo, cho bào nhẵn cây gỗ, gốc ngọn bằng nhau, rồi sơn đen toàn thân cây đề ba chữ trắng vào cây gỗ rằng "Hồ bất thực".
Hỏi quần thần, không ai đoán được. Hỏi Nguyễn Nghiêu Tư, ông ứng khẩu tức thì: "Hồ bất thực là cáo chẳng ăn. Cáo chẳng ăn thời cáo đói. Cáo đói thời cáo gầy. Cáo gầy là cây gạo! Không tin bổ cây gỗ mà xem".
Bổ ra quả là gỗ gạo. Thấy thế, sứ nhà Minh mồ hôi tuôn ra như tắm mà than rằng: "Người nước Nam tài giỏi như vậy, còn lấy trí thuật mà đấu thế nào được".
Ngày ấy, ở Trung Quốc hạn hán kéo dài, nhân có "Trạng Lợn" sang thăm, vua Minh mời trạng cầu đảo để thử tài. Trạng nhận lời, yêu cầu dựng đàn uy nghiêm để ông cầu đảo. Mục đích là kéo dài thời gian.
Khi thấy cỏ gà lang, trạng bèn lên đàn làm lễ, ông khấn theo cách nói lái: "Hường binh, hòa binh, tam tinh, kẹo tinh, bát tinh, linh tinh tinh...".
Vua Minh nghe thấy khiếp đảm, bái phục trạng uyên thâm, tỏ tường thiên văn, thuộc hết ngôi thứ các vị tinh tú trên trời. Khóa lễ vừa xong, lập tức mưa như trút nước, khiến vua Minh đã phục lại càng phục hơn.
Khi Nguyễn Nghiêu Tư về trí sĩ, vua thấy ông có công lớn với xã tắc, bèn gia phong "Thượng quốc công trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư", mà dân gian quen gọi với hai tiếng thân thương "Trạng Lợn", một người nổi tiếng hiếu học, ham hiểu biết, ứng đối thông minh, thể hiện lòng tự tôn dân tộc.
Theo báo Bắc Ninh, nằm trên đỉnh núi Đền, bao quanh là rừng thông xanh tốt, đền thờ trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư thuộc thôn Hiền Lương, xã Phù Lương, huyện Quế Võ, có cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp. Đây là nơi tôn vinh phụng thờ danh nhân khoa bảng có công lao lớn với dân với nước, không những được sử sách lưu danh, mà còn được nhân dân tôn thờ, ca ngợi, truyền tụng.
Hàng năm, cứ đến ngày 5/8 âm lịch là ngày mất của Quan Trạng, dân làng lại tổ chức tế lễ tại đền thờ ông để tôn vinh tri ân với một danh nhân đã có công lớn với dân với nước và quý khách thập phương đến rất đông.
Theo Zing
Từ cậu bé nghèo đứng hành lang học lỏm thành trạng nguyên Nhà nghèo không có tiền đi học, hàng ngày, Vũ Duệ cõng em, đứng ngoài hiên lớp học lỏm. Tinh thần vượt khó hiếu học đã giúp cậu bé ấy đỗ trạng nguyên, công danh thành đạt. Trạng nguyên Vũ Duệ tên thật Vũ Nghĩa Chi. Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, ông sinh năm 1468 trong gia đình nghèo...