Thầy giáo dạy Văn 21 năm hy sinh hạnh phúc riêng vì học trò vùng biên
Mỗi lần đi đâu, thầy Hà lo lắng lũ trò nhỏ không có thầy thì sẽ ra sao, ăn uống như thế nào, nhỡ chúng ăn phải cái gì ngoài đường rồi đau bụng.
Gắn bó với PTDT Bán trú – THCS Na Mèo (bản Na Mèo, xã Na Mèo, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa) từ những ngày trường còn sơ khai, đến nay, thầy Đỗ Thanh Hà (SN 1975) có 21 năm sát cánh cùng học trò huyện nghèo vùng biên, nuôi dưỡng nhiều thế hệ trẻ khôn lớn, trưởng thành.
Thầy Hà kể, năm 1998 khi là sinh viên mới ra trường, thầy cùng nhiều bạn học xung phong dạy ở các điểm trường vùng cao. Thầy được tỉnh phân công lên xã Na Mèo (trước đây thuộc xã Sơn Thủy). Nhà cách trường 200 cây số, nên thầy Hà khó có thể về thăm gia đình thường xuyên.
Biết quyết định của con trai tự nguyện lên vùng sâu, vùng xa, gia đình, nhất là mẹ của thầy ngăn cản quyết liệt. Mãi sau đó, bà mới chiều theo nguyện vọng của con trai, kèm theo lời nhắn nhủ: “Dù con ở đâu mẹ cũng sẽ chờ”. Còn bố lúc nào cũng động viên thầy Hà từ lúc chọn ngành sư phạm cho đến khi tốt nghiệp. “Con cố gắng lên, cứ đi học đi. Hãy cố gắng hết mình để phục vụ ngành giáo dục”, là lời nói khắc sâu trong tâm anh mãi đến bây giờ.
Thầy giáo Đỗ Thanh Hà, giáo viên bộ môn Ngữ văn trường PTDT Bán trú – THCS Na Mèo (Thanh Hóa).
8 năm đầu tiên xa nhà với thầy Hà là những ký ức không bao giờ quên. Trẻ trung, nhiệt huyết, khát khao đem con chữ đến với các học sinh bản nghèo xã Na Mèo, huyện Quan Sơn, nhưng nhiều lúc thầy giáo trẻ vẫn không nguôi nỗi nhớ nhà, nhất là khi thấy đồng nghiệp có gia đình lên thăm, còn anh chỉ quạnh hiu cô đơn một mình.
Gia đình khó khăn nên chưa có điều kiện đến thăm anh. Tình hình cuộc sống trên này thế nào anh đều gửi qua những lá thư viết tay, nhờ người thân của đồng nghiệp lên thăm chuyển giúp về thành phố. Gia đình anh cũng nhiều lần viết thư động viên. Mỗi lần như vậy, gia đình đều khuyên thầy chuyển công tác, nhưng thầy giáo trẻ nhất quyết bám bản.
Soạn giáo án bằng đèn dầu
Sau nhiều năm xa cách, lần đầu tiên mẹ thầy Hà lên thăm trường, nơi con trai công tác. “ Đường lên trường lúc đó khá vất vả, bắt xe từ 6h sáng nhưng phải mất nửa ngày mới tới nơi, chúng tôi thường gọi vui đó là “chuyến xe bão táp”. Khi ấy trường còn hoang sơ, cỏ mọc đến ngang ngực, phòng ngủ cho giáo viên còn sơ sài, tạm bợ”, thầy Hà kể.
Thương con, nhưng khi nhìn thấy lũ học trò nghèo ham học ở đây, mẹ thầy thay đổi suy nghĩ. Bà nhắn nhủ: “Vất vả cũng phải cố! Mày mà về thì mẹ cũng đuổi mày lên!”. Kể từ đó, thầy giáo Hà tự nhủ sẽ quyết tâm bám bản đến khi nghỉ hưu mới về nhà.
Quan Sơn ngày đó không có điện, giáo viên đêm ngồi soạn giáo án đều phải thắp đèn dầu. Đi rửa mặt mà các thầy cô ai nấy mặt khét đen. Để mua dầu cũng không phải chuyện đơn giản. Thỉnh thoảng giáo viên phải nhờ dân mua hộ khi họ có việc tiện đường xuống thị trấn, cách trường khoảng 53 cây số.
Khó khăn vất vả, nhưng chưa bao giờ thầy giáo nghĩ đến chuyện quay lưng lại với học trò, với phụ huynh. Hơn 20 năm qua, thầy Hà ngày ngày bền bỉ lên lớp, mang những bài văn, bài thơ, bài học đạo đức đến với từng học trò dân tộc nơi biên giới xứ Thanh.
Và cũng trong ngần ấy năm, thầy Hà cùng đồng nghiệp đến từng nhà dân để vận động cho con đi học. Các giáo viên động viên họ chỉ có cách học mới thay đổi được cuộc đời học trò, để “đi đường đi sau con trâu”, chỉ việc học là lối thoát duy nhất.
Video đang HOT
Một tiết học của thầy Hà, cả lớp im lặng nghe từng lời thầy nói.
Không lấy vợ, ở trường và chăm học trò như con
Có học sinh gắn bó với thầy giáo Hà suốt quãng thời gian cấp 2, qua lớp phụ đạo, bồi dưỡng học sinh giỏi. Thầy dạy không chỉ kiến thức, mà còn hướng dẫn cả tác phong sinh hoạt, dạy cả kỹ năng mềm khi các em chập chững từ tiểu học lên bậc học mới.
Thầy Hà chia sẻ rằng dạy các em học sinh lớp 6 đôi khi giống với dạy mầm non do không duy trì được nền nếp từ cấp 1 lên, từ hướng dẫn sơ vin thế nào, đầu tóc lúc đến trường ra sao, trực nhật phải làm gì… “Học trò như đứa con của mình, phải uốn nắn, dạy dỗ từ từ…“, thầy Hà nói.
Chính vì coi trò như con, thầy luôn khắc sâu tâm khảm: “Bỏ bẵng học trò đi sao được? Lương tâm của người thầy không bao giờ cho phép mình làm như thế”.
Vậy nên, phải là công việc quan trọng lắm thầy Hà mới rời trường. Ngoài thời gian trên lớp, thầy ở trong phòng làm giáo án, đến giờ thầy vào bếp thổi cơm cho lũ học trò luyện thi học sinh giỏi. Tới mức, học trò của anh nhiều lúc phải thốt lên rằng: “Thầy không nghỉ lấy một hôm để bọn em còn nghỉ!”.
Cứ chiều chiều, thầy Hà lại nhóm bếp chuẩn bị thổi cơm cho cô cậu học trò.
Đã ngoài 40 nhưng thầy Hà vẫn chưa lập gia đình, thầy hy sinh tình cảm riêng tư để sống với đam mê và hết lòng tận tâm với sự nghiệp giáo dục. Thầy bảo: “ Nếu kết hôn, tôi tính sẽ đưa vợ lên đây… tôi muốn gắn bó mãi mãi với mái trường này”.
Mỗi năm, thầy Hà rất ít khi về nhà mà thường ở liền một mạch trên trường. Lần gần nhất thầy về để sửa sang phần mộ của bố đẻ. Vừa đi, thầy vừa nghĩ đến học trò. ‘”Lũ trò nhỏ không có thầy thì sẽ ra sao, ăn uống như thế nào? Nhỡ chúng ăn phải cái gì ngoài đường rồi đau bụng…”. Ngay hôm sau, thầy xin phép mẹ lên trường vì lo lắng, bất an cho lũ trẻ.
“Nếu phải lựa chọn giữa việc hiếu và việc học của lũ trò, có lẽ tôi sẽ chọn học trò. Có thể nhiều người cho rằng tôi bất hiếu, nhưng tôi chấp nhận điều đó vì tương lai các em. Nếu thầy nghỉ dạy nhiều ngày, học trò sẽ cảm thấy mất chỗ dựa, mất kiến thức”, thầy Hà nói.
Sau thời gian công tác ở trường, điều khiến thầy Hà vui mừng nhất là đào tạo thế hệ học trò thành tài. Thầy giáo ngoài tứ tuần có những học trò như Bí thư xã, là giáo viên, đồng nghiệp tại trường,…quay trở về góp phần cùng thầy tạo nên các thế hệ kế cận tương lai.
Thầy Hà kể, có lần học trò về trường thăm, trông thấy thầy còn bảo: “Em tưởng thầy nghỉ công tác rồi?”. Lúc đó thầy Hà chỉ biết cười đáp: “Ừ, thầy vẫn ở đây mà!”.
Khác với hơn 20 năm trước, nhờ sự cố gắng của thầy Hà cùng thầy cô giáo nơi đây, học sinh dân tộc thiểu số tại PTDT Bán trú – THCS Na Mèo có thể yên tâm ở trường học tập, vui chơi.
Điều khiến thầy Hà trăn trở nhất là nhìn thấy hoàn cảnh các em học sinh vùng cao, dù muốn nhưng không thể đến trường. Hiện được sự quan tâm của nhà nước, trường có trợ giúp học sinh bằng cách kêu gọi đóng góp hỗ trợ học phí.
Nhìn lại những thay đổi về cơ sở vật chất suốt hơn hai thập kỷ gắn bó với ngôi trường, thầy giáo vui mừng khi chất lượng học tập của các em đến nay được cải thiện nhiều. “Vui lắm chứ khi so sánh với trước đây, học trò giờ có cả sân chơi đùa, tập thể dục sau giờ học, không còn phải chạy vào các vũng bùn, vũng nước lầy như ngày xưa nữa”, thầy Hà nói.
Theo VTC
Nhọc nhằn "cõng" chữ lên non
Có đi, có gặp mới thấu hiểu được những khó khăn, vất vả của người giáo viên cắm bản. Họ đến đây chỉ với ước nguyện đem ánh sáng và tri thức cho những trẻ em vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Để vào được điểm trường, các giáo viên cắm bản phải vượt qua những cung đường vô cùng khó khăn, vất vả.
Vượt qua những cung đường trơn trượt, heo hút chúng tôi vào bản Cha Khót, xã Na Mèo, huyện biên giới Quan Sơn khi bóng chiều đang xuống. Từ điểm trường chính (xã Na Mèo) đến bản Cha Khót phải mất gần 20km, tại đây hiện chỉ có 2 nữ giáo viên cắm bản, đó là cô Vi Thị Chuyên và Hà Thị Hằng.
Cha Khót là điểm trường xa xôi, hẻo lánh, đường đi lại khó khăn, những ngày nắng ráo còn đỡ nhưng ngày mưa thì vất cả vô cùng. Nhà 2 cô giáo Vi Thị Chuyên và Hà Thị Hằng đều ở xã Trung Hạ (Quan Sơn), cách điểm trường Cha Khót ngót nghét trăm cây số. Vì thế, vào cuối mỗi tuần nếu trời không mưa gió thì các cô tranh thủ về với gia đình của mình. Còn gặp thời tiết không thuận, có khi các cô phải ở lại điểm trường đến cả tháng trời.
Có lẽ, với những cô giáo cắm bản như cô Chuyên, cô Hằng luôn phải oằn mình chối chọi trên những cung đường trơn trượt sau cơn mưa rừng bất chợt không có gì xa lạ nhưng mỗi khi nhắc đến vẫn khiến các cô rùng mình.
Cô giáo Hà Thị Hằng với học sinh của mình ở điểm trường Cha Khót.
Nhớ đến những ngày ảnh hưởng của cơn bão số 3 vào tháng 8 vừa qua, cô Vi Thị Chuyên bộc bạch: "Đợt mưa lũ vừa qua, con đường vào bản bị sạt lở nặng nề nên hai chị em phải nhờ bà con dân bản đưa xe qua suối giúp. Khi vào được đến trường, phòng học của các em, phòng ở của chị em chúng tôi bị thấm dột hết, vì vậy hai chị em phải nhờ phụ huynh học sinh đến sửa sang, che chắn lại mới có phòng cho các em học, cũng như nơi để ngủ. Đó là chưa kể đến việc thiếu nước sinh hoạt... Khó khăn, vất vả là vậy nhưng chúng tôi luôn động viên nhau để cố gắng vượt qua".
Gia cảnh cô giáo Chuyên cũng rất khó khăn. Trước kia, chồng cố là y tá thôn bản, nhưng bị bệnh nặng phải đi phẫu thuật nhiều lần nên anh phải nghỉ việc. Vợ chồng cô Chuyên có hai đứa con, một bé gái hiện nay đang học lớp 7, còn con trai đầu lòng sau khi tốt nghiệp THPT, vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên cháu không thi vào trường đại học, cao đẳng nào cả, mà đi Hà Nội làm thuê để kiếm tiền phụ giúp mẹ thuốc men cho bố và nuôi em ăn học.
Trước đây, cả cô Chuyên và cô Hà đều dạy ở trường Tiểu học Trung Hạ. Cách đây hơn 2 năm, hai nữ giáo viên này được điều động lên công tác ở Trường Tiểu học Na Mèo và vào phụ trách khu Cha Khót. Hơn 2 năm trôi qua, cô giáo Vi Thị Chuyên và Hà Thị Hằng đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để gieo chữ ở vùng xa xôi, hẻo lánh ấy. Bởi, ở Cha Khót hiện nay đến sóng điện thoại thôi cũng đang chập chờn, chứ chưa nói đến các điều kiện khác.
Cô giáo Vi Thị Chuyên ân cần chỉ dạy cho học sinh của mình ở lớp học tại điểm trường Cha Khót, xã Na Mèo, huyện Quan Sơn.
Trò chuyện với chúng tôi, thầy giáo Chung Trường Thành, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Na Mèo, cho biết: "Năm học 2019-2020, điểm trường Cha Khót có 25 học sinh được chia thành 2 lớp ghép: lớp ghép lớp 1 và 3; lớp còn lại ghép lớp 2-4 và 5. Cha Khót là điểm trường xa xôi, hẻo lánh, đường đi lại khó khăn, nên việc hai giáo viên nữ phải vào cắm bản lại càng vất vả gấp bội. Biết là nếu có giáo viên nam vào cắm bản thì các cô giáo đỡ nhọc nhằn hơn nhưng, hiện nay nhà trường đang thiếu giáo viên so với định biên của trường chuẩn quốc gia, nên ban giám hiệu mới phải bố trí giáo viên nữ vào khu lẻ như vậy".
Chia tay vùng đất Quan Sơn, chúng tôi ngược bản Sậy, xã Trung Thành, huyện vùng cao Quan Hóa. Đây là một trong những bản nghèo nhất của huyện, dù chỉ cách trung tâm xã gần 10km nhưng vào được đến bản phải mất cả giờ đồng hồ.
Để đến đây "ươm chữ" cho các em, thầy cô chỉ còn cách cắm bản bởi việc đi lại hết sức khó khăn, nhất là vào mùa mưa. Là một trong những người có thâm niên cắm bản, thầy Lò Văn Thơm, trần tình: "Những năm trước, đường sá đi lại hết sức khó khăn nhưng giờ đã đỡ hơn rất nhiều. Ở đây tội nhất vẫn là các em học sinh, trời ấm thì đỡ nhưng những hôm mưa, rét nhìn bọn trẻ thương lắm! Quần áo không đủ ấm, nhiệt độ ngoài trời thường xuống thấp... nhiều hôm thầy trò chúng tôi phải đốt lửa sưởi ngay giữa phòng học, vừa ấm, vừa lấy ánh sáng để học".
Theo thầy Thơm, chuyện các em bỏ học là rất bình thường, đặc biệt là khi mùa măng hay vụ rẫy. Các em vào rẫy, lên rừng hái măng để phụ giúp gia đình. Cuộc sống khốn khó, càng khiến cho việc học của các em càng thêm khó khăn bội phần.
Thế nhưng, bằng tình yêu nghề các thầy vẫn kiên cường bám trụ, ngày đêm miệt mài "gieo chữ". 6 năm cắm bản, nhưng những lần về nhà của thầy Thơm cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Cũng là một trong những giáo viên cắm bản như thầy Thơm, cô Chuyên, cô Hằng, thầy giáo Phạm Ngọc Tiến, điểm trường Pa Púa, Trường tiểu học Trung Lý, xã Trung Lý, huyện Mường Lát, nhớ lại những ngày đầu khi đặt chân đến mảnh đất vùng biên này: "Ngày đầu đặt chân đến đây, cả điểm trường chỉ có một mình, trong căn phòng bằng tranh tre, nứa lá, ngoài tiếng dế kêu ban đêm chỉ biết làm bạn với ngọn đèn dầu. Mặc dù sinh ra và lớn lên ở Ngọc Lặc, cũng là người dân tộc nhưng thời gian đầu ở đây, tôi vẫn bị cô lập vì bất đồng ngôn ngữ bởi đồng bào ở đây đều là dân tộc Mông. Hàng ngày, ngoài việc lên lớp, tôi phải học thêm tiếng Mông, phải mất vài tháng, tôi mới hòa mình được với đồng bào nơi đây. Nhiều lúc chỉ muốn bỏ cuộc nhưng nhìn thấy các em lại không đành lòng. Chúng tôi là nam giới mà còn vất vả vậy chứ nói gì đến chị em phụ nữ", thầy giáo Tiến bộc bạch.
Dừng một lát, thầy Tiến bảo: "Có những lần mưa gió phải đi bộ hàng chục km phải mất vài ngày mới vào được điểm trường, còn việc đang đi rồi gặp trời mưa phải gửi xe dọc đường là chuyện rất bình thường. Vất vả nhất của các thầy cô cắm bản là làm thế nào để động viên các em đi học chuyên cần, nhất là sau mỗi dịp nghỉ hè. Có nhiều phụ huynh còn không biết con mình học lớp mấy chứ đừng nói đến chuyện khác".
Ở nơi này, chuyện các em bỏ học là điều bình thường, đặc biệt khi vào vụ măng hay mùa rẫy. Các em phải theo bố mẹ đi làm rẫy, hay lên rừng hái măng để phụ giúp gia đình. Trước đây, ngoài chuyên môn giảng dạy, các thầy cô còn phải phân công nhau ngoài giờ lên lớp để đi đến từng hộ gia đình vận động các em học sinh đi học lại. Có những gia đình ở xa bên kia núi, thầy cô phải lội bộ cả ngày đường để đi tìm học sinh.
Thế nhưng, khó khăn lớn nhất mà các giáo viên đang công tác tại đây gặp phải là những lúc trời ở đây đổ mưa, sương mù dày đặc, khiến phòng học không có điện, tối om. Những lớp học cũ kỹ, không cửa chắn, không còn đủ sức để che chở cho các cháu. Chưa kể, trình độ học sinh ở đây không có sự đồng đều, để học sinh tiến bộ, các thầy cô còn tự nguyện dạy kèm để các em tiến bộ.
Không chợ, không điện lưới, không sóng điện thoại, đường đường đất, không có nước sạch... Vì vậy, các thầy cô giáo lúc nào cũng phải dự trữ cá khô, trứng, mì tôm... bởi nếu mưa dài ngày thì chỉ còn biết ăn rau rừng.
Chia tay những thầy cô giáo vùng cao, ra về trên những cung đường nhão nhoét, nhớ lại câu chuyện của thầy Phạm Ngọc Tiến kể, chúng tôi mới thấm thía thêm những thiệt thòi của các giáo viên cắm bản "trồng người". Thầy giáo Tiến bảo: "Mỗi dịp hiến chương nhà giáo, các em trên này hiếm khi nhớ đến. Bao nhiêu năm "gieo" chữ chưa bao giờ được nhận một bó hoa đúng nghĩa từ học trò. Nhưng chỉ cần các em đến lớp đầy đủ, chăm chỉ học hành đó chính là món quà vô giá rồi".
Thật khó có thể nói hết những khó khăn và vất vả của những thầy cô giáo vùng cao, vượt lên gian khó, họ vẫn đang từng ngày cần mẫn ở những bản làng xa xôi, hẻo lánh để gieo mầm cho những ước mơ. Bằng sự tận tâm, tận lực của mình, họ đã và đang làm cho con chữ dần nảy mầm trong đá.
Hoài Thu
Theo baothanhhoa
Cảm phục những nữ giáo viên cắm bản nơi lũ dữ Cô và trò ở điểm trường Sa Ná, Cha Khót, Ché Lầu... xã Na Mèo, huyện Quan Sơn (Thanh Hóa) đang hối hả chuẩn bị đón ngày khai giảng. Cùng với bộn bề khó khăn của vùng khó, đội ngũ nữ giáo viên cắm bản ở đây luôn đối mặt với bao gian nan, vất vả. Dân bản khiêng xe qua suối giúp...