Thầy giáo của những huy chương Vật lý quốc tế
Sau 12 năm đứng trên bục giảng, thầy Trần Văn Nga, giáo viên Vật lý Trường THPT Phan Bội Châu (Nghệ An) được đồng nghiệp nể phục bởi thành tích xuất sắc trong việc ôn luyện học sinh giỏi quốc gia, quốc tế.
Sinh ra trong gia đình nhà giáo ở vùng đất Đô Lương (Nghệ An), đồng lương thời bao cấp của bố mẹ không đủ trang trải cuộc sống hằng ngày. Vì thế tuổi thơ của Trần Văn Nga là những ngày vừa đi học vừa lên rừng lấy củi, những bữa cơm độn khoai sắn và những bữa theo mẹ đi chợ bán hàng đến tối mịt mới về nhà. Cũng vì quá nghèo mà cả mấy anh em đều phải cố gắng học để thoát khổ.
Những năm 1994-1995, nhiều học sinh giỏi ở xứ Nghệ đã lựa chọn các “mã ngành hot” như tài chính ngân hàng, công nghệ thông tin, ngoại thương, quản trị kinh doanh thì chàng trai Trần Văn Nga lại lựa chọn ngành sư phạm Vật lý, ĐH Vinh để vừa tiếp nối truyền thống giảng dạy Vật lý của bố vừa không muốn gia đình phải quá lo lắng về kinh tế khi đứa em thứ 2 cũng chuẩn bị vào đại học…
Vừa đi học vừa tranh thủ thời gian rảnh rỗi đi dạy thêm kiếm sống, nhưng Trần Văn Nga vẫn xuất sắc đạt bằng giỏi đại học với số điểm tổng kết cao nhất khóa. Với thành tích đó, Trần Văn Nga được chuyển tiếp cao học rồi trở về giảng dạy tại Trường chuyên Phan Bội Châu của tỉnh Nghệ An.
Thầy giáo Nga và học sinh Nguyễn Huy Hoàng tại kỳ thi Olympic Vật lý 2011.
Từ năm 2002, thầy Trần Văn Nga được giao phụ trách các lớp chuyên lý. Các khóa học sinh chuyên do thầy Nga đảm nhận luôn đậu đại học 100%, hàng chục em đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia. Đặc biệt, hầu như ở kỳ thi Olympic vật lý châu Á, quốc tế nào cũng có học sinh của thầy Nga tham dự và luôn đạt thành tích cao.
Năm 2007, học trò của thầy Nga là Nguyễn Tất Nghĩa giành tấm huy chương vàng Vật lý quốc tế. Năm 2008, Nghĩa tiếp tục giành hai huy chương vàng Olympic Vật lý châu Á và Olympic Vật lý quốc tế, thủ khoa kỳ thi học sinh giỏi quốc gia môn Vật Lý và trở thành đại diện duy nhất của ngành giáo dục nhận danh hiệu “Vinh quang Việt Nam”.
Tại kỳ thi Olympic Vật lý châu Á tại Israel tháng 5/2011, đoàn Việt Nam đoạt 2 huy chương đồng, chủ nhân của 2 tấm huy chương ấy là đôi bạn cùng lớp do thầy giáo Nga chủ nhiệm – Nguyễn Trung và Nguyễn Huy Hoàng. Đến tháng 7/2011, Nguyễn Huy Hoàng tiếp tục mang về huy chương vàng cho đoàn Việt Nam tại kỳ thi Olympic Vật lý quốc tế ở Thái Lan, bạn thân cùng lớp Nguyễn Đình Hội đoạt huy chương bạc…
Thời kỳ đầu, khi mới có những học trò xuất sắc đầu tiên dự thi đấu trường quốc tế, nhiều người cho rằng thầy Nga chỉ giỏi “luyện gà chọi” hoặc “ôn trúng tủ”, nhưng hầu như ở kỳ thi nào cũng có học sinh xứ Nghệ tham dự và đạt giải, mọi người mới có suy nghĩ khác về phương pháp dạy và học của thầy trò chuyên lý do Trần Văn Nga phụ trách.
Để chuẩn bị lựa chọn học sinh tham dự các đội tuyển, thầy giáo Nga thường lựa chọn những em giỏi, thông minh, bình tĩnh và cẩn thận từ đó đưa ra phương pháp dạy riêng cho mỗi người. Đa số các em này đến từ miền quê nghèo khó của tỉnh Nghệ An.
Trước mỗi kỳ thi, học sinh được chọn sẽ về nhà riêng của thầy giáo, cùng ăn, cùng ở và cùng học với thầy. Trong ký ức của nhiều học sinh chuyên Lý trường Phan Bội Châu, những ngày tháng ôn luyện ở căn nhà nhỏ của thầy Nga thật đặc biệt. Nhiều hôm, cả mấy thầy trò cùng giải xong một dạng đề thi Olympic thì trời đã sáng, mọi người chỉ kịp ăn vội bát mì tôm để lên lớp học bài mới. Có bạn sau khi giải xong bài thì mừng quá không buồn ngủ nữa, lại có lúc đang làm bài các em thiếp đi trên bàn học…
Thời gian đầu, việc nấu cháo, nấu mì tôm cho học trò vào ban đêm do chính thầy Nga đảm nhiệm. Về sau, để tranh thủ thêm thời gian giảng giải và chỉ bảo cho các em, nhiệm vụ trên được mẹ và vợ thầy Nga đảm nhận.
Video đang HOT
Nói về quãng thời gian đứa cháu nội của mình ôn tập ở nhà thầy Nga, ông Nguyễn Xuân Ái, ông nội của huy chương vàng năm 2011 Nguyễn Huy Hoàng rất cảm phục. Theo quy định của trường, các em chỉ được học thêm 2 buổi một tuần nhưng thầy Nga dạy cho các em 4-5 buổi mà không thu tiền. Những lúc đó, hầu như cả gia đình thầy thức trắng, bà mẹ già lụi cụi pha mì tôm, nấu cháo trong khi vợ của thầy lo lắng pha sữa rồi động viên cả trò và thầy học bài.
“Phía sau những tấm huy chương, những bằng khen, giấy khen của học trò luôn có bóng dáng của cả gia đình thầy giáo Nga. Các em quyết tâm thi đậu, dành giải thưởng cũng vì muốn báo đáp công ơn thầy”, ông Ái tâm sự.
Theo thầy Nga, việc phát hiện ra những nhân tố xuất sắc của học sinh cùng tầm bao quát kiến thức mới là chìa khóa làm nên sự thành công của mỗi lứa học trò. Thầy giáo không thể giải nhanh những bài thi, đề thi cụ thể bằng học sinh nhưng các em rất cần ở thầy cô giáo ở tính định hướng vĩ mô về các loại đề, dạng đề và ở tầm bao quát kiến thức.
“Không có ai thành tài, đạt đến đỉnh vinh quang mà không nhờ khổ luyện. Tôi cho rằng việc trau dồi kỹ năng làm bài, tăng cường tinh thần độc lập suy nghĩ, tự chủ trong tư duy cũng như rèn luyện khả năng lì đòn cho mỗi học sinh trước giờ ra trận mới là yếu tố làm nên sự thành công”, thầy giáo với khuôn mặt gầy gò, đôi mắt cương nghị chia sẻ.
Lãnh đạo tỉnh Nghệ An tuyên dương thầy Nga và học trò đạt giải quốc tế.
Có được sự thành công trong việc dẫn dắt học trò đi thi quốc tế nhưng điều mà người thầy giáo trẻ trăn trở chính là xu hướng chọn nghề của giới trẻ hiện nay. Từ nhiều năm nay, học sinh chuyên Lý của thầy Nga đều chọn những ngành mới như ngoại thương, ngân hàng, kế toán thay vì tiếp tục đi sâu nghiên cứu Vật lý hay khoa học cơ bản, sư phạm trong khi đó điểm đầu vào của những ngành này đang thấp dần.
Trước thực trạng hầu hết giáo viên hiện nay phải lăn lộn làm thêm, dạy thêm, làm ngoài giờ, nhiều người đi bán hàng đa cấp, bán bảo hiểm để mong đảm bảo cuộc sống, thầy giáo Trần Văn Nga bày tỏ hy vọng rồi đây cơ chế sẽ thay đổi, xã hội sẽ ghi nhận một cách xứng đáng và những người nghiên cứu khoa học, những thầy cô giáo sẽ có được mức sống đảm bảo từ đồng lương chính đáng của mình.
“Đến khi đó, nền khoa học nước nhà sẽ có thêm nhiều Ngô Bảo Châu trong các lĩnh vực và thế hệ trẻ Việt Nam sẽ không chỉ dừng lại ở những tấm huy chương trong mỗi kỳ thi mà còn tiếp tục tỏa sáng trong các giải thưởng quốc tế như Nobel, Fields,…”, thầy giáo Trần Nga nói.
Theo VNE
Cô giáo tiểu học của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
Tuổi gần 80, cô giáo Đặng Thị Phúc vẫn nhớ như in lớp học đơn sơ, lộng gió ở đình làng, nơi có cậu học trò nghèo, học giỏi Nguyễn Phú Trọng. Sau gần 50 năm bặt tin, cả cô giáo và học trò đều nghẹn ngào khi bất ngờ hội ngộ.
Năm 1956 sau khi học xong sư phạm liên khu 3, cô về xã Mai Lâm, Từ Sơn, Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội) dạy học. Gia đình thuộc thành phần tiểu tư sản nên cô phải thoát ly, sống và lao động cùng dân. Ngày ấy, ngoài giờ dạy, cô Phúc giúp dân phơi thóc, phơi rơm, băm bèo cho lợn. Có lúc tay ngứa lắm nhưng cô không dám kêu. Tối đến, cô lại dạy lớp bình dân cho cán bộ xã, có khi phải đi theo đội cải cách. Buồn và nhớ nhà nên mỗi khi tan học cô lại níu học sinh lại dạy hát.
Lớp 4 cô dạy, số lượng học sinh của xã Mai Lâm ít quá nên phải kết hợp với xã Đông Hội để đủ một lớp. Mai Lâm 33, Đông Hội 15 em với nhiều độ tuổi khác nhau cùng tụ tập về mái đình thôn Mai Hiên học tập. Học trò lớn nhất lớp tên Duy, là lớp trưởng và bằng tuổi cô giáo. Còn học trò nhỏ nhất, ở xã Đông Hội là Nguyễn Phú Trọng .
Lớp học đặt ở tả mạc, không có cửa nên rất lộng gió, bàn ghế thì cọc cạch, chân thấp chân cao. Sân đình được dùng để phơi lúa nên những ngày nắng, lớp học nóng hầm hập vì hơi lúa bốc lên, ngày mưa học trò phải dồn lại một bên để tránh ướt.
"Cực nhất là những ngày mùa đông, cứ mỗi cơn gió thổi, cô trò lại co ro, môi thâm tím, run cầm cập", cô Phúc kể.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến thăm cô giáo cũ.
Là lớp ghép của hai xã, khi học được một thời gian, Đông Hội lại mở lớp 4 nhưng 15 học sinh Đông Hội ở lớp cô vẫn không chịu rời cái lớp học nơi đình làng. Cô Phúc vô cùng hạnh phúc vì được học sinh lưu luyến, tin yêu.
Bé nhất lớp nên cô muốn đưa Trọng lên bàn đầu ngồi. Nhưng cậu không chịu rời bàn thứ tư, cạnh lớp trưởng Duy. Cô giáo đoán chắc Trọng đi học nhờ trường bạn, lại bé nhất lớp nên không dám rời lớp trưởng.
Giữa đám học trò lam lũ đủ mọi lứa tuổi, học trò Trọng có ấn tượng sâu sắc nhất với cô bởi nhỏ tuổi nhất nhưng lại học giỏi nhất lớp. Trò Trọng ngày ấy tóc để mái chéo, không đen hẳn mà hơi hoe vàng, nước da trắng xanh. Trong lớp, cậu rất thông minh, giơ tay phát biểu rất hăng say, chữ viết tròn và đẹp.
Trò Trọng đi học từ nhà ở thôn Đông Trù phải qua thôn Lê Xá, vượt qua một cánh đồng mới đến được lớp. Quãng đường dài gần 3km toàn đường đất, rất khó đi, nhất là vào những ngày trời mưa dầm, cậu học trò nhỏ phải cố bấm ngón chân xuống đường cho khỏi ngã.
"Suốt thời gian học lớp 4 cậu chỉ mặc mỗi một bộ quần áo nâu, không kể đông hay hè. Đó là chiếc áo bà ba xẻ tà, quần màu nâu, đi chân đất" - cô Phúc kể.
Cuối năm học, vì trò Trọng là học sinh xuất sắc, giỏi toàn diện, đứng vị trí thứ nhất nên được báo cáo điển hình trước toàn trường. Khi biết tin vui đó, cậu lại rất ngại, khuôn mặt ngây thơ cứ ngẩn ra vì không biết phải nói gì trước đông đảo thầy cô và bạn bè. Cô Phúc phải hướng dẫn cho học trò cách viết báo cáo, kể lại phương pháp học tập để các bạn noi theo.
"Trọng nói, ở lớp em chỉ chăm chú nghe giảng thôi, em thấy phân số khó nên những bài cô chữa trên bảng em ghi hết, về viết lại rồi học. Còn môn văn, khi cô chữa ở bên lề, em về nhà chép lại, bỏ những chữ cô gạch và thêm những từ cô cho vào, đọc lại để rút kinh nghiệm lần sau. Lúc trò Trọng lên báo cáo, nhân dân Đông Hội rất phấn khởi còn tôi thì ứa nước mắt vì cậu trò nhỏ ngây thơ vẫn mặc bộ quần áo nâu, chân đất như mọi ngày", cô Phúc ngậm ngùi.
Khác với bây giờ, học sinh hồi ấy khi học xong lớp 4 phải thi lên cấp hai. Cô Phúc nhớ, khi trò Trọng lên học trường cấp 2 Nguyễn Gia Thiều, trò vẫn thường cùng anh lớp trưởng Duy đến thăm cô. Sau đó, cô chuyển nhà đi nơi khác nên hai cô trò mất liên lạc.
Sau hai năm dạy lớp 4, cô Phúc đi học và ra dạy cấp 2, môn Toán. Cô nhiều năm liền cô là giáo viên dạy giỏi cấp thành phố. Năm 2001, sau khi dự buổi họp mặt với học sinh lớp 4 năm ấy, có em báo tin "Cô ơi, học trò Phú Trọng bây giờ làm to lắm".
Khi về nhà, nhớ về cậu trò nhỏ học giỏi nhất lớp năm xưa, cô nghĩ học sinh của mình nhiều, em nào trưởng thành thì càng phấn khởi vì đó là món quà quý nhất cho nghề giáo. Vài hôm sau cô viết xong bài thơ với tựa đề "Người trò nhỏ năm xưa" (tặng N.P.T).
Thế nhưng mãi đến năm 2005, cô mới có dịp đọc bài thơ này ở hội thơ nhà giáo. với đề là tặng N.P.T. Cô không ngờ, chính bài thơ đó đã giúp "Người trò nhỏ năm xưa" tìm lại cô giáo mình.
Hôm đó, đang làm việc nhà thì cô nhận được điện thoại. Vừa bắt máy, đầu dây bên kia đã hồ hởi: "Gần 50 năm rồi em mới được nghe tiếng nói của cô, em vẫn còn giữ cuốn học bạ có chữ ký của cô đấy ạ, em sẽ đến thăm cô". Cô Phúc sững sờ khi biết đó là vị lãnh đạo Nguyễn Phú Trọng, nhưng cô vội gạt đi: "Anh đã làm việc lớn, phục vụ nhân dân là quý lắm rồi, anh bận nên không phải đến thăm cô đâu".
Đã gần 80 tuổi, cô Phúc tham gia các câu lạc bộ thơ và giúp cháu học bài. Ảnh: Hoàng Thùy.
Vài hôm sau, ông đến thăm cô. "Trò Trọng đến khi tôi đang chuẩn bị cơm chiều, kể cũng tài, lúc đó nhà tôi đang xây nên phải đi ở thuê, đường quanh co mà em vẫn tìm được", bà xúc động nói.
Lúc bước vào nhà, ông Nguyễn Phú Trọng trách "mấy chục năm rồi mới được gặp, thế mà cô còn không cho em đến ". Cô trò cứ nhìn nhau xúc động không nói nên lời. Ông ân cần hỏi han cuộc sống của thầy cô và vui mừng khi biết thầy cô đã ổn định, an nhàn với ba con đều thành đạt.
"Đã thấy trên ti vi nên khi trò Trọng bước vào tôi nhận ra ngay. Vẫn đôi mắt ấy, vẫn khuôn mặt ấy, ngày xưa em nhỏ bé thì giờ cũng chẳng cao lớn. Thế nhưng, tôi xót xa bởi tóc trò giờ đã bạc trắng", cô giáo già xúc động.
Ngồi trò chuyện suốt một giờ, ông Nguyễn Phú Trọng kể những chuyện ngày xưa, khi ấy nhà không có đồng hồ, cứ sáng dậy cậu lại múc gáo nước giụi mắt, xong chạy ù sang nhà anh Duy xem anh đã đi học chưa. Rồi khi lên cấp 2 không có ai đi cùng, nhà vẫn chưa có đồng hồ, có hôm nửa đêm thức dậy sợ muộn học, Nguyễn Phú Trọng vội cắp sách chạy ra đường đê ngồi co ro chờ đò.
"Trò Trọng nói, có hôm chờ mãi chẳng thấy đò đâu, vừa đói vừa rét, may mà không biết sợ ma. Sáng ra có người nói mới biết, có thể lúc ra bến mới khoảng 12h đêm", bà Phúc kể và cho hay, đoạn đường đi học của trò Trọng thời cấp 2, 3 chừng 6-7 km và phải đi đò qua sông.
Cô Phúc tặng quyển thơ cho ông Nguyễn Phú Trọng, ông nói phải mang về cho "bọn trẻ ở nhà" xem. Ông muốn chúng đọc thơ cô giáo để hiểu, chứ ông kể chúng không hình dung ra được cuộc sống ngày xưa vất vả thế nào.
"Một tuần sau thì anh thư ký mang ảnh cô trò chụp chung đến tặng tôi. Nhiều lần khác anh Trọng cử người mang sách về Đảng đến nhà tặng. Ngày lễ, tết đều gọi điện chúc mừng", bà Phúc nói. Tết nguyên đán vừa qua, ngay khi vừa được bầu làm Tổng bí thư, mùng 3 Tết - ngày Tết thầy, ông gọi điện chúc tết cô giáo, lúc đó là 10h đêm sau chuyến đi công tác trở về.
Gần 40 năm gắn bó với nghề dạy học, nhưng cô giáo Phúc coi quãng thời gian hai năm dạy tiểu học, đặc biệt là lớp học đầu tiên của cuộc đời thật quý giá. Dìu dắt bao lớp học trò, nhưng cái lớp học nhỏ ở đình làng, ba bề lộng gió, có người học trò quanh năm chân đất, áo bà ba nay đã trưởng thành, thì bà chẳng bao giờ quên.
Theo VNE
Chùm ảnh độc đáo về những khoảnh khắc trường xưa Những khoảnh khắc thời học trò đầy kỷ niệm được ôn lại dưới những khung hình dưới đây. Ngày 20/11 là dịp để ôn lại những kỷ niệm giữa thầy và trò. Thời học sinh của chúng ta ai cũng có đầy ắp kỷ niệm. Những khoảnh khắc đáng nhớ ấy được ghi lại và lưu giữ rất nhiều năm về sau. Dưới...