Thầy dạy chữ và cuộc vượt ngục bất thành
Dù đã ở tuổi ngoài 90, tai có phần nghễnh ngãng, mắt đã mờ đi nhiều, nhưng những ký ức về thời thanh niên sôi nổi làm cách mạng vẫn vẹn nguyên trong trái tim cựu tù Hỏa Lò Nguyễn Tiến Hà.
Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước tại xã Văn Lâm ( huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương), ông Nguyễn Tiến Hà sớm giác ngộ cách mạng. Cùng với người anh trai của mình, 1 trong số 8 người trẻ nhất lúc bấy giờ được Bác Hồ đặt tên Tạ Quang Chiến (Nguyễn Hữu Văn), chàng thanh niên Nguyễn Tiến Hà hừng hực khí thế bước vào cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc.
Ông Nguyễn Tiến Hà.
Khát vọng… tiến về Hà Nội
Từng thi đỗ tú tài từ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nguyễn Tiến Hà đã hăng hái gia nhập Đoàn Thanh niên cứu quốc Thành Hoàng Diệu, được giao nhiều nhiệm vụ, trong đó có một việc công khai: làm giáo viên truyền bá chữ quốc ngữ cho nhân dân.
Những năm kháng chiến, với chiếc đèn dầu trong tay, đêm đêm ông đến Trường “Công ích” nằm trong Ngõ Chùa Liên Phái – Phố Bạch Mai để dạy chữ cho người lao động, qua đó giác ngộ, tập hợp họ theo cách mạng.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông xung phong gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam. Trận đầu tiên, ông và đồng đội chiến đấu, quyết tử trên chiến lũy “Ô Cầu Dền” thuộc Liên khu II, góp phần cùng quân và dân Hà Nội cầm chân địch trong suốt 60 ngày đêm khói lửa, sau đó tạm rút về an toàn khu.
Năm 1948, ông được điều động về vùng địch tạm chiếm thuộc nội thành Hà Nội để gây cơ sở với vỏ bọc “giáo sư”, dạy các môn Anh, Pháp, Toán. Khi thì ông làm gia sư cho con cháu những gia đình khá giả, có thời gian ông lại về giảng dạy ở các trường như: Trường Saint Thérèse, Trường Schoola… Chính nhờ việc dạy học, ông đã bồi dưỡng cho nhiều học sinh tinh thần yêu nước, khéo léo vận động học sinh của mình đi theo kháng chiến. Cũng từ đây, ông chính thức mang tên Nguyễn Tiến Hà (bí danh đó thực chất là việc gọi chệch của lời thề “Nguyện Tiến về Hà Nội” mà ông luôn nung nấu trong mình).
Lớp học trong tù và cuộc vượt ngục bất thành
Tháng 5/1950, ông bị địch bắt cùng với nhiều sách vở và giấy tờ tùy thân, trong đó có tấm thẻ căn cước giả mang tên Trần Hữu Thỏa (một bí danh khác của ông) với nghề nghiệp “Giáo sư”. Ông bị địch đưa về Sở Mật thám tra khảo, hỏi cung… nhưng chúng đã không khuất phục được người trí thức cách mạng.
Video đang HOT
Nhờ được học tập tại các lớp học trong Hỏa Lò mà sau khi thoát khỏi nhà tù, nhiều anh em đã có thêm kiến thức và năng lực công tác để phục vụ cách mạng; họ lại tiếp tục học tập lên cao, để rồi họ lại cống hiến sức mình cho Tổ quốc.
Cũng chính tại Sở Mật thám (nay là Sở Công an Hà Nội), ông đã cùng với một số đồng chí khác tìm cách đào tường vượt ngục. “Trước hết phải đào được tường để chui ra. Ra được bên ngoài thì phải vượt được 2 bức tường với khoảng 50m tường để thoát ra ngõ Liên Trì, khi ấy mới qua được tường ngục. Qua đường dây người nhà tiếp tế cho tù nhân, tôi gửi mật thư báo cáo với Ban Chỉ huy Mặt trận quân sự nội thành đề nghị khi chúng tôi trốn về đến một xã ngoại thành thì cho người đưa ra khu căn cứ. Kế hoạch được chấp nhận. Chúng tôi bắt tay vào thực hiện ngay. Moi đào liên tục khoảng 4- 5 đêm thì xong. Một đêm tối cuối tháng 8 âm lịch (năm 1950), chúng tôi khởi sự. Khoảng nửa đêm, tôi dậy trước, hoàn tất giai đoạn cuối cùng khoét thủng tường, tạo một lỗ hổng vừa một người chui lọt. Tôi chui đầu ra đầu tiên, kéo theo một tấm chăn mỏng. Như có lò xo, tôi bật lên chiếc thùng phuy kê sát tường đã nhằm trước, chớp nhoáng tung chăn phủ lên hàng rào dây thép gai có điện, liệng người qua đường sang phía Sở Mật thám liên bang lao về phía trước, như được tiếp thêm một sức mạnh phi thường, tôi vọt qua bức tường thứ hai, nhảy xuống ngõ Liên Trì như kế hoạch đã định”, ông Hà nói.
Nhóm 4 người trốn thoát, nhưng trên đường ra căn cứ, người dẫn đường không thạo đường nên ông Hà cùng 3 đồng chí đã bị địch vây bắt trở lại. Lần này, ông phải chịu những trận đòn tra tấn tàn bạo hơn gấp nhiều lần hòng bắt ông phải khai, nhưng người chiến sĩ cộng sản kiên trung ấy vẫn không hé răng nửa lời. Cơ thể ông gầy tọp đi, sức khỏe giảm sút. Địch e sợ ông không qua khỏi, cuối tháng 12/1950, chúng chuyển ông sang Nhà tù Hỏa Lò nhằm phi tang. Nhưng ở đây, nhờ đồng đội chăm sóc, thuốc thang, sức khỏe ông đã dần hồi phục.
Đại diện Ban Liên lạc chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đầy tại Nhà tù Hỏa Lò trong một lần đến thăm cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông Nguyễn Tiến Hà ngồi bên phải Đại tướng.
Sau đó, ông được anh em tín nhiệm bầu vào Ban Chi ủy, rồi ông còn được cử làm Bí thư chi bộ của Nhà tù. Ông đã cùng ban lãnh đạo các trại giam tổ chức cho anh em đấu tranh chống địch khủng bố, đàn áp, đòi cải thiện đời sống cho tù nhân. Đặc biệt, ông đã tích cực tham gia tổ chức các lớp học văn hóa, chính trị, ngoại ngữ và cũng là thầy giáo trong các lớp đó, chính vì vậy mà anh em tù nhân đã gọi ông với cái tên thân mật: Thầy giáo Thỏa hay thầy Hiệu trưởng Thỏa.
Giờ đây, ông Nguyễn Tiến Hà vẫn nhận trách nhiệm là Trưởng Ban Liên lạc chiến sỹ cách mạng bị địch bắt tù đày tại Nhà tù Hỏa Lò (1930 – 1954).
Lúc bấy giờ, việc học văn hóa trong Nhà tù Hỏa Lò đã thành phong trào. Thời điểm đó, bọn chúa ngục kiểm tra gay gắt các lớp học, nhưng trong các tờ giấy ghi chép bài của học sinh chỉ có công thức toán, lý, hóa, các hình vẽ, các bài giảng ngoại ngữ. Còn các bài giảng chính trị, quân sự hoàn toàn nhập tâm, bọn chúa ngục đành bó tay.
Cuối năm 1952, ông được trả tự do sau gần 3 năm sống trong nhà tù thực dân. Ông tìm cách bắt liên lạc với đơn vị, hoạt động bán công khai với danh xưng Giáo sư Trần Hữu Thỏa. Hòa bình lập lại, ông được phân công về giảng dạy tại Trường Đại học Sư phạm và gắn bó với sự nghiệp trồng người cho đến tuổi nghỉ hưu.
Lan Hương
Theo infonet
Ánh sáng tri thức từ "bình dân học vụ"
Trong ký ức của những người từng biết và tham gia phong trào bình dân học vụ, đó là những ngày cả nước, cả huyện, cả thôn xóm dù đi đến đâu cũng nghe văng vẳng con chữ được cất vang ê a.
Từ bảng đen, thúng mủng và trên cả... lưng trâu là những nét chữ tròn vạnh. Phong trào học tập, diệt giặc dốt được đẩy mạnh chưa từng có. Nhờ nền móng này, đến nay ánh sáng tri thức được lan tỏa, chất lượng dạy và học trên địa bàn cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng không ngừng được nâng cao.
Qua những ngõ ngách ngoằn nghèo với sự chỉ dẫn tận tình của nhiều người dân, tôi cũng đến được nhà thầy Nguyễn Trà (quận Đống Đa, Hà Nội) - người từng tham gia đóng góp, dạy học thời điểm phong trào bình dân học vụ lên cao. Hơn hết, cho đến bây giờ, thầy Nguyễn Trà vẫn giữ được cốt cách thanh cao của bậc sỹ phu, thầy là người mở lớp học Hướng Thiện, giúp dạy con chữ miễn phí cho hàng trăm trẻ nhỏ.
Ký ức về thời bình dân học vụ
Nghe kể, thầy Nguyễn Trà tốt nghiệp Trường Bưởi năm 1954 và là sinh viên khóa đầu tiên của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ra trường, thầy về giảng dạy môn Vật lý ở một số trường trung học phổ thông, rồi gắn bó với Trường Trung học phổ thông Nguyễn Trãi cho tới khi về hưu năm 1989. Cũng từ đây, thầy nhận trách nhiệm quản lý đình Trung Tự. Hằng ngày, trên quãng đường từ nhà ra đình, phải đi qua khu dân cư nghèo, chứng kiến cảnh những đứa trẻ đen nhẻm, nhếch nhác dõi mắt thèm thuồng nhìn những đứa trẻ đồng trang lứa quần áo tinh tươm đến trường khiến thầy đau lòng.
Người dân hăng hái tham gia phong trào "diệt giặc dốt". (Ảnh tư liệu)
Nhắc chuyện này, thầy Trà bảo, sống ở trên đời mà không biết chữ thì thiệt thòi lắm. Nhà bọn trẻ nghèo, phải theo cha mẹ làm phụ hồ, nhặt rác, rồi đây cuộc đời chúng sẽ ra sao? Tiền thì thầy chẳng có, chỉ có chút vốn liếng ở trong đầu. Lúc ấy chỉ nghĩ phải làm sao để giúp các cháu ít nhất là thoát khỏi cảnh mù chữ, để hy vọng một ngày nào đó chúng có thể tự làm thay đổi cuộc đời mình. Lớp học Hướng Thiện cứ như vậy manh nha ra đời.
Bên lề câu chuyện, tôi tình cờ biết rằng thầy Trà cũng là một trong số những người tham gia dạy bình dân học vụ một thời. Khi ấy, hễ trời chuyển tối, từ người già đến trẻ nhỏ lại tất bật mang vở, bút, xách đèn dầu đi tìm con chữ trong những căn nhà lá đơn sơ. Trong ánh đèn dầu lập lòe, những mái đầu cặm cụi, ê a đánh vần. Người biết nhiều chữ dạy lại, kèm cặp người biết ít, cứ vậy dần tất thảy đều biết đọc, biết viết.
Nhắc chuyện này, GS.TS Phạm Tất Dong - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam cho biết, lúc đó bản thân ông còn nhỏ nhưng vẫn thường thấy các anh chị của mình, rồi các bác, các chú trong xóm, ngoài làng đi học, đi dạy bình dân học vụ như thế. Giản dị, thực chất và hiệu quả.
GS.TS Phạm Tất Dong bảo, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi những thầy cô giáo làm công tác bình dân học vụ là những "vô danh anh hùng" vì những đóng góp thầm lặng của họ. Và Bác cũng nói "học bình dân cũng là học đạo đức". Điều này càng ngẫm càng thấy đúng. Vì sao ư? Bởi người dạy nhiệt tình, không vụ lợi còn người học thì hăng say. Người ta dù bận đến mấy, dù có đói đến mấy nhưng vẫn kéo nhau đi học. "Các ông bà già, rồi các chị phụ nữ tay âm ấp con mọn vẫn đi học. Vật chất phục vụ học tập khó khăn nên trên lưng con trâu người ta cũng có thể viết chữ lên được, cái mẹt cũng viết chữ lên được. Cứ phương tiện gì học được là học. Không có bút thì thầy cầm cái que vạch lên vạch đất" - GS.TS Phạm Tất Dong nhớ lại.
Theo GS.TS Phạm Tất Dong, phong trào bình dân học vụ thời điểm đó rất khác với phong trào học tập suốt đời bây giờ. Khác thứ nhất, lúc bấy giờ 95% nhân dân mù chữ cho nên việc ai cũng đi học để có cái chữ là cực kỳ cấp bách. Thứ hai, thời kỳ ấy cả nước đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp. Đây là cuộc kháng chiến hết sức căng thẳng. Một bên chỉ có vũ khí thô sơ mà phải đánh nhau với một đế quốc tăng thiết giáp, bom, máy bay. Trong bối cảnh kháng chiến căng thẳng như thế, không trau dồi tri thức, không học không được. Phát động phong trào bình dân học vụ, trước hết theo lời Chủ tịch Hồ Chí Minh là coi đây như một loại giặc, đặt ngang với giặc đói và giặc xâm lược. Tính cấp bách và tính chiến đấu ngang nhau và chỉ có quyết liệt, bền gan vững chí mới có thể dành thắng lợi.
Xây dựng xã hội học tập
Khách quan nhìn nhận, kinh nghiệm từ phong trào bình dân học vụ đến nay vẫn có nhiều ý nghĩa và được vận dụng sáng tạo, hiệu quả trong công cuộc đổi mới giáo dục của Việt Nam. Trong đó, việc xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX), hệ thống giáo dục quốc dân ngày càng hoàn thiện với hàng ngàn cơ sở giáo dục từ các cấp học, bậc học được phân bố trên cả nước. Là địa phương nhiều năm liền dẫn đầu cả nước về công tác giáo dục và đào tạo, Hà Nội vẫn đang từng ngày quan tâm nhiều hơn để chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của thành phố ngày càng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới.
Theo số liệu của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, năm học 2018 - 2019, toàn thành phố có 2.713 trường mầm non, tiểu học, phổ thông và trung cấp chuyên nghiệp với gần 2 triệu học sinh và hơn 155.000 cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên. Bên cạnh đó còn có 29 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên với gần 28.000 học sinh; 520 cơ sở giáo dục ngoài công lập và 8 trường công lập tự chủ với tổng số học sinh 256.155 người.
Quy mô giáo dục liên tục phát triển, mạng lưới trường, lớp được mở rộng, cơ sở vật chất được tăng cường. Cũng trong năm học này, Hà Nội đã thành lập mới 77 trường học, trong đó có 38 trường mầm non, 17 trường tiểu học, 15 trường trung học cơ sở và 7 trường trung học phổ thông. Đồng thời cải tạo, sửa chữa 427 trường học với 2.450 phòng học. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia đạt thành tích xuất sắc. Năm 2018 vượt chỉ tiêu, đạt 150% kế hoạch, với 120 trường được công nhận. Thành phố hiện có 18 trường chất lượng cao, trong đó có 13 trường công lập và 5 trường ngoài công lập.
Quanh câu chuyện bình dân học vụ, theo GS.TS Phạm Tất Dong phòng trào đã có nhiều tác động đến công tác giáo dục và đào tạo hiện nay. "Cái cơ bản nhất mà chúng ta thấy được sau kháng chiến chống Pháp là chúng ta có một đội quân biết chữ. Thứ nữa, dân mình từ mù chữ đã trở thành hầu hết đều học qua được một chút ít, dù chỉ là trình độ hết sức sơ đẳng nhưng không còn bị mù chữ. Quan trọng nhất, tinh thần học hỏi nhìn từ bình dân học vụ còn làm tăng thêm lòng yêu nước. Các câu dạy để học ấy, các khẩu hiệu học tập đều là nguồn động viên to lớn, góp sức vào kháng chiến thắng lợi" - GS.TS Phạm Tất Dong nhấn mạnh.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra 3 loại "giặc" phải đối mặt là giặc đói, giặc ngoại xâm và giặc dốt. Trong 3 loại giặc này thì giặc nào cũng nguy hiểm, đòi hỏi dân tộc ta cũng phải chiến thắng. Bởi vậy, ngay từ buổi đầu độc lập, với tầm nhìn chiến lược của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" nên ngày 8/9/1945 Chính phủ đã ban hành sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ.
Từ sắc lệnh này, phong trào Bình dân học vụ đã được Đảng, Nhà nước chú trọng, nhân dân nhiệt tình hưởng ứng nên đã tạo thành một phong trào rộng khắp trên cả nước. Từ chỗ dân số có tới 95% mù chữ nhưng dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã làm nên những điều phi thường, lấy sức mạnh và sự ủng hộ của toàn dân để làm thay đổi vận nước. Và cũng từ phong trào này đã tạo tiền đề cho sự phát triển giáo dục sau này.
Phạm Thảo
Theo laodongthudo
Tuổi 18 tự hào đứng dưới ngọn cờ Đảng và làm theo lời dạy của Bác Với nam sinh Tôn Lương Bảo, Bác Hồ là tấm gương sáng cho mỗi người trong chúng ta noi theo, việc học tập và làm theo tư tưởng, phong cách, đạo đức của Bác là cách tốt nhất để chúng ta hoàn thiện bản thân, phát huy tốt nhất những khả năng, phẩm chất của mình. Thành tích của Tôn Lương Bảo: -...