Tháo gỡ khó khăn cơ sở vật chất trường, lớp học
Cơ sở vật chất trường, lớp học là một trong những yếu tố có tính quyết định để triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới đạt hiệu quả. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, cơ sở vật chất trường, lớp học còn thiếu và lạc hậu.
Trường THPT Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh được đầu tư xây dựng khang trang. Ảnh: HÙNG SƠN
Vì vậy, ngành giáo dục và các địa phương thực hiện nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, đáp ứng yêu cầu dạy học, nhất là trong bối cảnh chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ được triển khai từ năm học 2020-2021.
Cơ sở vật chất thiếu và lạc hậu
Trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) tiểu học và THCS xã Lũng Pù, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang nằm trên núi đá cheo leo, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được so với nhu cầu dạy học. Cả trường có 51 lớp học với hơn 1.000 học sinh nhưng mới có 47 phòng học được xây kiên cố. Hiệu trưởng Trường PTDTBT tiểu học và THCS Lũng Pù Nguyễn Thanh Xuân cho biết: Do điều kiện địa hình phức tạp, chủ yếu là núi đá cho nên diện tích khuôn viên của trường nhỏ hẹp. ối với bậc tiểu học, số phòng cơ bản đáp ứng nhu cầu dạy hai buổi/ngày, nhưng bậc THCS thì còn thiếu sáu phòng học. Khó khăn nhất của nhà trường hiện nay còn thiếu tất cả các phòng học bộ môn (âm nhạc, mỹ thuật, ngoại ngữ, tin học, phòng chức năng của bộ môn hóa, sinh) và trang thiết bị… ảnh hưởng đến việc đổi mới, nâng cao chất lượng dạy và học.
Trong khi đó, tại huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang những năm vừa qua đã kết hợp nhiều chương trình khác nhau như: kiên cố hóa trường lớp học, xây dựng nông thôn mới, xã hội hóa giáo dục… để đầu tư cơ sở vật chất trường, lớp học. Tuy nhiên, toàn huyện vẫn còn thiếu 39 phòng học. Theo Trưởng phòng GD và T huyện Bắc Quang Phạm Hồng Thanh: Mặc dù là địa phương vùng thấp, có điều kiện kinh tế – xã hội phát triển nhất, nhì của tỉnh nhưng để đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới, huyện còn thiếu khá nhiều phòng học bộ môn gồm: 36 phòng học tiếng Anh, 31 phòng học Tin học; nhiều trường chưa có phòng học mỹ thuật, âm nhạc, thí nghiệm…
Theo đại diện Sở GD và T tỉnh Hà Giang, tỷ lệ kiên cố hóa trường, lớp học của tỉnh bậc tiểu học mới đạt gần 45%; cấp THCS đạt hơn 92%. Cùng địa bàn miền núi, Giám đốc Sở GD và T tỉnh iện Biên Nguyễn Văn Kiên cho biết, toàn tỉnh có 8.963 phòng học nhưng số phòng kiên cố mới chiếm tỷ lệ 62%, số phòng học tạm chiếm 13%, còn lại là phòng học bán kiên cố. Bên cạnh đó, hệ thống phòng học chức năng, thư viện, thí nghiệm, nhà bán trú, nhà công vụ, sân chơi, bãi tập của nhiều trường chưa bảo đảm được nhu cầu tối thiểu. Như vậy, cơ sở vật chất trường, lớp học của tỉnh chưa đáp ứng được cả về quy mô và yêu cầu đổi mới giáo dục.
Không chỉ các tỉnh miền núi, ngay tại Thủ đô Hà Nội, cũng có tình trạng cơ sở vật chất thiếu thốn, không đáp ứng được yêu cầu dạy học. Theo Trưởng ban Văn hóa – Xã hội, Hội đồng nhân dân TP Hà Nội Nguyễn Thanh Bình, kết quả giám sát việc đầu tư cơ sở vật chất các trường công lập trên địa bàn cho thấy, từ năm 2016 đến giữa năm 2019, toàn thành phố chi ngân sách cho giáo dục là hơn 76 nghìn tỷ đồng, trong đó chi cho xây dựng cơ bản là hơn 27,8 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, một số nơi vẫn tồn tại phòng học nhờ, học tạm, xuống cấp; có 22% số trường có công trình vệ sinh chưa bảo đảm. Nhiều dự án đầu tư xây dựng trường học trong khu đô thị mới chậm triển khai khiến tình trạng thiếu trường, lớp xảy ra ở nhiều quận, huyện. iển hình như tại quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì có Khu đô thị tây nam Linh àm, Khu đô thị Pháp Vân-Tứ Hiệp đều có quy hoạch xây dựng sáu trường học mỗi khu, nhưng sau nhiều năm mới xây dựng được một trường ở mỗi khu…
Video đang HOT
Theo Bộ Giáo dục và ào tạo (GD và T), kết thúc năm học 2018-2019, cả nước có 27.693 trường phổ thông với tổng số 584.732 phòng học. Cơ sở vật chất trường, lớp học chưa đáp ứng nhu cầu phát triển về quy mô và yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Trong tổng số phòng học mới có hơn 74,86% số phòng học kiên cố, hơn 19,95% phòng học bán kiên cố và 5,18% phòng học mượn tạm. Một số tỉnh có tỷ lệ phòng học kiên cố đạt thấp như: Tuyên Quang 51,1%; Cao Bằng 51,2%; ác Nông 54,7%; Bình Phước 52,5%; Sóc Trăng 48,1%…
Lồng ghép các nguồn vốn đầu tư
Theo Bộ GD và T, để tăng cường cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu, toàn ngành giáo dục tập trung quan tâm việc đầu tư xây dựng trường, lớp; trong đó, ưu tiên các hạng mục như phòng học, thư viện, nhà vệ sinh, công trình nước sạch…
Thứ trưởng GD và T Nguyễn Hữu ộ cho biết, bộ đã chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương khảo sát tất cả các trường và nhận diện được những khó khăn về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ở từng cấp học, từng địa phương, từ đó tổ chức rà soát, điều chỉnh các chuẩn, tiêu chuẩn về trường, lớp học phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông mới. Bộ GD và T đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án Bảo đảm cơ sở vật chất cho giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông giai đoạn 2017-2025 và hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện; phối hợp với Bộ Kế hoạch và ầu tư hướng dẫn các địa phương đề xuất danh mục và thực hiện các thủ tục đầu tư theo quy định giao vốn trái phiếu Chính phủ thực hiện mục tiêu kiên cố hóa trường, lớp học giai đoạn 2017-2020.
Ngoài ra, Bộ GD và T đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các chương trình, đề án hỗ trợ cơ sở vật chất trường, lớp học như: Chương trình mục tiêu giáo dục vùng núi, vùng dân tộc thiểu số và vùng khó khăn giai đoạn 2016-2020; tạo cơ sở pháp lý và trách nhiệm để các địa phương huy động nguồn lực bảo đảm cơ sở vật chất trường, lớp học. Bộ GD và T đã ban hành quy định danh mục thiết bị dạy học tối thiểu lớp 1; tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và ban hành các quy định về tiêu chuẩn cơ sở vật chất theo lộ trình đổi mới chương trình giáo dục. Ngay trong năm học 2019-2020, ngoài việc triển khai các chương trình, đề án bổ sung xây mới, sửa chữa trường, lớp học, ngành giáo dục sẽ rà soát các tiêu chí về cơ sở vật chất, thiết bị trường học được công nhận đạt chuẩn quốc gia; xây dựng kế hoạch bổ sung, duy tu, bảo dưỡng cơ sở vật chất, thiết bị đối với các tiêu chí trường chuẩn quốc gia…
Cùng với Bộ GD và T, các địa phương tích cực huy động, lồng ghép các nguồn lực để xây dựng, tu sửa phòng, lớp học. Giai đoạn 2017-2019, các địa phương đã lồng ghép các nguồn vốn, đầu tư xây dựng bổ sung 14.308 phòng học. iển hình như Bắc Giang bổ sung 1.271 phòng học, Vĩnh Phúc 1.178 phòng học, Thanh Hóa 1.820 phòng học, Thừa Thiên – Huế 1.176 phòng học.
Tại Hà Nội, theo Giám đốc Sở GD và T Hà Nội Chử Xuân Dũng, ngành giáo dục đã tham mưu UBND thành phố Hà Nội ban hành các văn bản quy hoạch xây dựng trường, lớp như Quyết định 3552/Q-UBND năm 2017, điều chỉnh quy hoạch mạng lưới trường, lớp học đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Ngoài ra, để đáp ứng các điều kiện cơ sở vật chất trường, lớp học, từ năm 2016 đến năm 2018 khối các quận, huyện trên địa bàn Hà Nội đã đầu tư xây mới được 194 trường học, cải tạo, sửa chữa 436 trường. ối với các trường trực thuộc Sở GD và T Hà Nội cũng được chú trọng cải tạo, sửa chữa từ năm 2016 đến 2019 là 131 dự án. Trong đó, riêng năm 2019 cải tạo, sửa chữa 51 dự án với nguồn kinh phí 135 tỷ đồng và xây mới 11 trường với kinh phí 424 tỷ đồng…
Trong thời gian tới, Hà Nội xác định triển khai xây dựng các trường công lập theo vị trí, quy mô quy hoạch đô thị để đáp ứng nhu cầu học tập của cư dân sinh sống trong các khu đô thị. Cân đối phù hợp việc xây dựng trường công lập và trường tư thục tại các dự án khu đô thị mới, nhất là các khu vực còn thiếu trường, lớp học.
Tại Hà Giang, trước những khó khăn về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để bảo đảm cho chương trình giáo dục phổ thông mới, UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch triển khai thực hiện đề án bảo đảm cơ sở vật chất trường, lớp học cho chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông giai đoạn 2019 – 2025. Theo đó, tổng nhu cầu kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị trường học là hơn 7.469 tỷ đồng. ây là số kinh phí rất lớn đối với tỉnh nghèo miền núi. Do đó, tỉnh Hà Giang xây dựng kế hoạch lồng ghép các nguồn vốn khác nhau, huy động tối đa nguồn lực xã hội hóa, cân đối, bố trí ngân sách địa phương nhằm bảo đảm đủ nguồn vốn, đáp ứng việc thực hiện các mục tiêu của kế hoạch, bảo đảm đủ cơ sở vật chất, thiết bị dạy học tối thiểu, đáp ứng yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng GD và T…
MẠNH XUÂN VÀ KHÁNH TOÀN
Theo Nhân dân
Tuần Giáo chuẩn bị các điều kiện cho chương trình GDPT mới ở bậc tiểu học
Như vậy, chỉ còn 1 năm nữa sẽ chính thức triển khai chương trình giáo dục mới (GDPT). Do đó, ngay từ bây giờ, công tác chuẩn bị cho chương trình GDPT mới đã được huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên triển khai.
Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới sẽ được chính thức triển khai từ năm học 2020 - 2021, đầu tiên là đối với lớp 1; tiếp đó năm học 2020 - 2021 là lớp 2, lớp 6; năm học 2021 - 2022 là lớp 3, lớp 7, lớp 10; năm học 2022 - 2023 là lớp 4, lớp 8, lớp 11 và năm học 2024 - 2025 là lớp 5, lớp 9, lớp 12.
Việc đối mới GDPT là mục tiêu chiến lược của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nhu cầu đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, do vậy năm học 2019 - 2020 huyện Tuần Giáo xác định là năm bản lề để chuẩn bị tốt cho chương trình đối mới. Ngay sau khi bước vào năm học 2019 - 2020 công tác chuẩn bị điều kiện để phục vụ cho chương trình GDPT mới được các trường học trên địa bàn huyện Tuần Giáo triển khai và trọng tâm ở bậc tiểu học.
Một buổi hoạt động giữa giờ của trường TH số 2 thị trấn Tuần Giáo
Cô giáo Hoàng Thanh Phương - Hiệu trưởng Trường Tiểu học số 2 thị trấn Tuần Giáo cho biết: Ngay khi có thông tin liên quan đến Chương trình GDPT mới, nhà trường đã chỉ đạo các trường triển khai đến từng cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh; đồng thời chuẩn bị nguồn lực giáo viên nòng cốt. Nhà trường lựa chọn, chuẩn bị đội ngũ giáo viên dạy các lớp đầu cấp để có kế hoạch bồi dưỡng, tập huấn cho 100% giáo viên được phân công dạy theo Chương trình, SGK GDPT mới theo lộ trình của Bộ GD&ĐT.
Xác định đội ngũ nhà giáo, những người trực tiếp tạo nên chất lượng giáo dục, đóng vai trò quyết định cho thành công của công cuộc đổi mới, nhà trường tiến hành thực hiện đ.ánh giá cán bộ quản lý (CBQL), giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp, chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng CBQL, giáo viên đáp ứng yêu cầu thực hiện Chương trình, SGK GDPT mới. Đến nay 100% CBQL, giáo viên đạt trình độ trên chuẩn.
"Bên cạnh vấn đề về đội ngũ giáo viên, nội dung, phương pháp dạy học, nhà trường quan tâm đặc biệt đến cơ sở vật chất, tích cực tham mưu với cấp trên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo đủ diện tích phòng học, phòng bộ môn và diện tích sân chơi bãi tập, trang thiết bị dạy học đảm bảo thực hiện tốt kế hoạch dạy học" . Cô Hoàng Thanh Phương nói.
Trường TH số 2 thị trấn Tuần Giáo chuẩn đầy đủ những điều kiện để sẵn sàng cho thực hiện chương trình đổi mới GDPT
Bà Lê Thị Hồng - Trưởng phòng GD & ĐT huyện cho biết: Để thực hiện tốt chương trình đổi mới GDPT huyện Tuần Giáo trước tiên phải là tốt từ năm đầu và bậc tiểu học. Hiện toàn huyện Tuần Giáo có 28 trường tiểu học, trong đó 4 trường PTDTBT, 98 điểm trường lẻ. Để thực hiện tốt chương trình đổi mới GDPT công tác chuẩn bị được ngành GD&ĐT của huyện triển khai thực hiện bài bản dưới sự chỉ đạo sát sao của cấp ủy, chính quyền địa phương. Những năm qua, ngành GD&ĐT đã thực hiện đổi mới; chỉ đạo áp dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học mới; thực hiện đổi mới công tác kiểm tra, đ.ánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học sinh theo hướng phát triển năng lực. Đây là bước đệm quan trọng khi bước vào triển khai áp dụng chương trình GDPT mới.
Bên canh đó Phòng GD&ĐT đã tham mưu UBND huyện ban hành Kế hoạch thực hiện đảm bảo cơ sở vật chất cho chương trình mới; đầu tư cơ sở vật chất nhằm duy trì, 100% học sinh được học 2 buổi/ngày, các phòng chức năng như phòng giáo dục nghệ thuật, phòng máy tính, ngoại ngữ, hoạt động đội...cơ bản đảm bảo. Phòng đang tích cực chỉ đạo các nhà trường nâng cao hoạt động của thư viện trường học, rèn học sinh thói quen đọc sách và chủ động tìm tòi thông tin thông qua hoạt động của thư viện. Các trường rà soát thiết bị dạy học tối thiểu, rà soát và thay thế các thiết bị dạy học lớp 1 theo Thông tư 05/2019/TT-BGDĐT, ngày 05 tháng 04 năm 2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Ban hành danh mục thiết bị dạy học tối thiểu lớp 1.
Nhiều trường ở vùng sâu, vùng khó khăn của huyện cũng được đầu tư cơ sở vật chất khá khang trang và đầy đủ các trang thiết bị dạy và học
Ngoài ra, huyện chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý ổn định, đảm bảo về trình độ đào tạo, năng lực, nghiệp vụ công tác; đã xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý cốt cán của ngành đủ về số lượng, vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên kiểm tra, chia sẻ với các đơn vị trong huyện. Bà Lê Thị Hồng nói.
Là huyện vùng cao, tỷ lệ hộ dân đói nghèo còn cao, nhận thức của một số bộ phận người dân về giáo dục còn hạn chế; cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy nhiêu nơi còn thiếu, chưa đồng bộ; đội ngũ giáo viên ở bâc tiểu học vẫn còn thiếu ở những bộ môn chuyên biệt.v.v. Đây thật sư là những khó khăn và thách thức đổi với huyện Tuần Giáo trong quá trình đổi mới chương trình GDPT.
Duy Linh
Theo thoidai
Lớp học 'nhiều u' ở ngôi chùa Khmer lớn nhất miền Tây Chùa Xiêm Cán tọa lạc cách trung tâm TP. Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu khoảng 7km. Đây được xem là ngôi chùa Khmer lớn nhất, uy nghi nhất của tỉnh Bạc Liêu và miền Tây. Lớp học chữ Khmer tại chùa Xiêm Cán được duy trì khoảng 20 năm qua. Đối tượng học là các sư sãi ở chùa Xiêm Cán và một...