Thẳng thắn nhìn nhận, mạnh dạn thay đổi
Trao đổi với phóng viên Báo Đại Đoàn Kết, GS VS Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục cho rằng để thu hút những học sinh, sinh viên giỏi của Việt Nam sau khi học tập ở nước ngoài trở về cống hiến cho đất nước, Chính phủ cần có chính sách sử dụng nhân tài hợp lý hơn, doanh nghiệp cần hưởng ứng, các cơ quan nhà nước cũng cần tạo điều kiện.
Ông Phạm Minh Hạc.
PV: Thưa ông, câu chuyện “ chảy máu chất xám” không phải bây giờ mới được nhìn nhận mà từ nhiều năm nay các nhà khoa học, chuyên gia đã chỉ ra, nghị trường Quốc hội nhiều năm cũng “ nóng” vấn đề này nhưng vì sao “gỡ mãi vẫn rối”?
GS VS Phạm Minh Hạc: Hiện nay nhiều học sinh, sinh viên thành thạo ngoại ngữ tìm kiếm cơ hội du học ở ngoài biên giới lãnh thổ. Nhiều gia đình có điều kiện cũng chủ động cho con em đi du học. Nhiều trường của nước ngoài hiện vào các trường của Việt Nam để tìm kiếm người giỏi, chiêu sinh về trường họ… Điều đó không có gì sai và cũng rất bình thường. Giống như nhiều học sinh ở tất cả các địa phương trên cả nước tập trung học đại học, làm việc ở thành phố lớn mà không ở lại quê nhà dù ở địa phương cũng có phân hiệu của trường đại học đó mở.
Tuy nhiên, có một bộ phận những học sinh, sinh viên giỏi, đạt được các huy chương quốc tế hoặc những thành tích như vô địch cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia… ra nước ngoài du học và sau đó định cư luôn ở nước ngoài. Nhiều người nói rằng đó là hiện tượng “chảy máu chất xám” và bày tỏ lo lắng.
Tôi nghĩ có một điều luôn đúng là “chất xám” thực sự thì ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, nó chỉ chảy về nơi mà nó nhận được sự trân trọng, nâng niu với những điều kiện tốt nhất để có thể phát triển.
Nếu coi những sinh viên giỏi, những người tài là “chất xám” giống như một cái cây, được bón phân, tưới nước rồi nhưng phải có môi trường tốt để phát triển. Nếu chỉ giậm chân một chỗ thì cái cây đó sẽ chết hoặc còi cọc, không thể lớn hơn.
Nên vấn đề ở đây không đơn giản là chuyện đi hay ở của một vài cá nhân người tài, của du học sinh Việt Nam trở về nước hay ở lại nước ngoài mà liên quan đến chính sách sử dụng nhân tài của Chính phủ cần hợp lý hơn, doanh nghiệp cần hưởng ứng, các cơ quan nhà nước cũng thế…
Video đang HOT
Ông có thể nói rõ hơn những đề xuất này?
- Tôi lấy ví dụ thế này, dù chúng ta có thi cử công khai nhưng cũng đã có những tiêu cực bị phát hiện… Rồi vấn đề môi trường làm việc, chế độ đãi ngộ tại cơ quan, công sở làm việc vẫn là rào cản để những người được đào tạo bài bản ở nước ngoài muốn trở về nước… Cách đây mấy năm, tôi nhớ có một bài báo kể câu chuyện về lương tiến sĩ thua cả một bác giúp việc, từng làm dậy sóng dư luận. Thực trạng đáng buồn đó không thể cải thiện nếu không có những chính sách ở tầm vĩ mô.
Một nghiên cứu sinh sau khi học tập ở nước ngoài theo đề án của Chính phủ tâm sự với tôi, lúc mới trở về nước, vị này rất hồ hởi muốn áp dụng, vận dụng được những kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm học được ở nước ngoài vào cơ quan họ đang công tác song quá khó khăn do hàng loạt vấn đề cơ chế, thẩm định…
Ngay cả việc áp dụng những kỹ thuật, kiến thức này vào giảng dạy cho các sinh viên trong nước cũng khó khăn do người học không quen, không mặn mà hưởng ứng. Còn việc đưa ví dụ cụ thể vào bài học như cách đào tạo ở nước ngoài thì khó do sự hợp tác của cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp chưa chặt chẽ, doanh nghiệp Việt Nam không muốn tiết lộ ra ngoài hoặc chính họ cũng không được giữ nhiều dữ liệu quan trọng… Không sử dụng được những điểm mạnh họ có được khi du học thì lâu dần, có thể sẽ bị mất đi.
Theo tôi biết Việt Nam đã có những đề án nghiên cứu về vấn đề này, giải pháp, đề xuất cũng đã có nhưng có lẽ khi triển khai trong thực tế lại có những vướng mắc. Vấn đề bây giờ là mạnh dạn gỡ rối ra sao để người trẻ khi hăng hái trở về không bị nhụt chí.
Không nên trách những người trẻ chưa trở về đó. Mà trước hết, hãy nhìn vào chủ trương chính sách đào tạo tiếp những người có tài năng vào các ngành, lĩnh vực của đất nước, sau đó sử dụng họ ra sao. Phải thẳng thắn nhìn nhận vấn đề này thì mới tìm ra được lời giải cho bài toán lãng phí chất xám chúng ta vẫn đề cập lâu nay.
Trân trọng cảm ơn ông!
Đề xuất gửi Tân Bộ trưởng Giáo dục: GS.TS Đặng Kim Vui nêu 3 vấn đề cải thiện đại học
GS.TS Đặng Kim Vui, nguyên Giám đốc ĐH Thái Nguyên đã đưa ra 3 vấn đề để cải thiện chất lượng giáo dục ĐH gửi đến tân Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn.
Giữ chân người tài
Theo GS. Đặng Kim Vui, hiện nay đang có xu hướng chảy máu chất xám trong các cơ sở giáo dục ĐH. Người giỏi không thiết tha với công việc giảng dạy trong trường, tìm ra ngoài với những mức lương cao hơn. "Lâu dài sẽ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo giáo dục ĐH. Không những thế, ảnh hưởng đến cả chất lượng giáo dục phổ thông. Vì giáo viên là do các trường ĐH đào tạo", GS. Vui cảnh báo.
GS.TS Đặng Kim Vui
Nguyên nhân là chế độ tiền lương hiện nay chưa công bằng, chưa hợp lý và thấp. Kể cả giáo sư, tiến sĩ đã ở bậc cao lương cũng chỉ đủ ăn, không có tích lũy, phát triển. Ví dụ một giảng viên đã có bằng tiến sĩ, lương khởi điểm khoảng 5-6 triệu đồng. Sau 5 năm lên được 8-10 triệu. Mức lương này chưa đủ ăn, nói gì đến lo cho gia đình. Kể cả có làm việc cho các trường ngoài công lập, được phép trả lương không theo ngạch bậc thì lương tiến sĩ mới ra trường cũng chỉ được đến 20 triệu đồng/tháng. Trong khi đó, nếu làm cho công ty nước ngoài, lương khởi điểm có thể là 2.000 - 3.000 đô la/tháng.
GS. Đặng Kim Vui khẳng định mức lương hiện nay trong ngành giáo dục nói chung và giáo dục ĐH nói riêng đã qua lạc hậu so với các hoạt động kinh tế khác hấp dẫn hơn. "Ngày xưa, thời chúng tôi ra trường được làm giảng viên ĐH là một vinh dự lớn nhưng bây giờ những người giỏi không muốn ở trường mà muốn ra ngoài làm việc vì có thu nhập cao hơn và đãi ngộ tốt hơn. Do đó giáo dục ĐH không còn là môi trường hấp dẫn đối với người tài vừa cống hiến, vừa có thu nhập. Đó là cản trở đối với hệ thống giáo dục ĐH và phổ thông", GS Vui nói.
Giáo sư không phải là thợ dạy
Vấn đề thứ hai mà GS. Đặng Kim Vui chỉ ra đó là giảng dạy ĐH đang ở mức lỗi thời so với các nước phát triển. Ở các nước giảng viên ĐH làm song song 2 nhiệm vụ: giảng dạy và nghiên cứu, học hàm càng cao thì nghiên cứu càng nhiều giảng dạy càng ít.
Ở Việt Nam ngược lại, giảng viên học hàm cao thì định mức giảng dạy càng cao. Thời gian hầu như dành cho giảng dạy, giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ đều là thợ dạy. Trong giảng dạy, đối với ĐH, yêu cầu đầu tiên là kiến thức mới.
Để có kiến thức mới thì các giảng viên phải làm nghiên cứu, thời gian nghiên cứu phải nhiều. Ví dụ một giáo sư người Việt ở ÚC một năm chỉ giảng dạy 45 tiết, đào tạo nghiên cứu sinh, 1 năm phải đăng tải 3-4 bài báo có chỉ số quốc tế, lương khoảng 250.000 đô la Úc/năm.
Bù lại công việc phải làm rất lớn, trong khi giáo sư Việt Nam chưa làm được. Để được công nhận giáo sư, trong suốt một quãng thời gian dài, Việt Nam cũng chỉ yêu cầu có 3 bài báo quốc tế.
GS. Đặng Kim Vui cho rằng, thực tế, các giảng viên chủ yếu giảng dạy theo sách vở, không làm được nghiên cứu, hoặc làm rất ít. Tỷ lệ giảng viên làm nghiên cứu chỉ 10 - 20%, còn lại dạy theo giáo trình. Tuy số lượng bài báo quốc tế của Việt Nam có tăng lên nhưng so với các nước trong khu vực vẫn thua xa như Thái Lan.
Thực trạng này cũng có nguyên nhân từ trang thiết bị máy móc của các cơ sở giáo dục ĐH Việt Nam không hiện đại, ít phòng thí nghiệm tiên tiến. Giảng viên muốn có được những nghiên cứu với những bài báo đóng góp chỉ số cao thì phải dựa vào những phòng thí nghiệm tiên tiến. Như vậy cơ sở vật chất cũng rất yếu kém.
Như vậy, để các giáo sư không còn là thợ dạy, theo GS. Đặng Kim Vui phải giải quyết được hai bài toán: giải phóng giảng viên khỏi những định mức hành chính, cần cơ chế để có kinh phí đầu tư cơ sở vật chất để giảng viên có chỗ nghiên cứu, nâng cao năng lực nghiên cứu của mình.
Quyền tự chủ đúng nghĩa
Luật đã giao cho các cơ sở giáo dục ĐH được tự chủ. Nhưng đó quy định còn thực tế khác rất nhiều. Các trường ĐH vẫn một cổ mấy tròng, phụ thuộc vào bộ chủ quản, bộ chuyên ngành vẫn rất lớn. GS. Đặng Kim Vui nhận định tự chủ hiện nay chưa đồng bộ dẫn đến các trường khi triển khai mắc rất nhiều.
Làm thế nào để trường ĐH hoạt động theo luật, không phụ thuộc vào các bộ chủ quản? Các trường tự chủ có trách nhiệm giải trình, các bộ chủ quản chỉ có vai trò giám sát. Ví dụ quy định ngạch bậc của giáo sư ở các nước không trả giống nhau, tùy thuộc vào nguồn lực của mỗi trường và độ cống hiến của mỗi giáo sư.
Vì vậy, các trường cạnh tranh để có giáo sư giỏi về công tác. Hiệu trưởng làm quản lý nhưng cũng là ông chủ, có quyền trả lương cho người lao động tạo ra sản phẩm cho nhà trường. Người nào tạo ra được nhiều sản phẩm thì được trả lương cao. Hiện nay giáo sư các trường công lập ở Việt Nam vẫn theo ngạch bậc giống nhau.
Cản trở này vài chục năm nay rồi mà vẫn không thay đổi nhiều. Vấn đề cởi trói cho các trường ĐH liên quan đến nhiều Bộ ngành, như nhân sự liên quan đến Bộ Nội vụ, lương liên quan đến Bộ Tài chính, cơ sở vật chất liên quan đến Bộ Kế hoạch đầu tư, đó còn chưa kể các vấn đề khác liên quan đến bộ chủ quản. Vì thế, Bộ GD&ĐT cần phải có kiến nghị, gỡ khó cho các trường.
Chảy máu chất xám: Vấn nạn chung của nhiều nước Thuật ngữ "chảy máu chất xám" (brain drain) xuất hiện cách đây 70 năm, khi các nhà khoa học, kỹ sư, công nhân lành nghề ở Vương quốc Anh vượt đại dương để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Điều dưỡng viên nước ngoài làm việc tại Nhật Bản. Còn hiện tượng di cư của đội ngũ nhân lực có trình...