Thái giám ngoại quốc làm lụi tàn một triều đại Trung Hoa
Sử sách Trung Quốc ghi nhận thái giám ngoại quốc đầu tiên là Phác Bất Hoa, người Cao Ly, góp phần làm triều đại nhà Nguyên sụp đổ.
Phác họa chân dung thái giám ngoại quốc đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa. Ảnh: Baidu
Theo Guoqing, thái giám ngoại quốc đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa là Phác Bất Hoa. Ông là người Cao Ly (Triều Tiên ngày nay), sinh vào thời vua Nguyên Văn Tông (1304-1332).
Khi 7 t.uổi, Phác Bất Hoa tịnh thân, vào cung làm nô tài chuyên lo quét dọn, trà nước. Một cô gái cùng vào cung lúc đó là Kỳ Lạc, sau này trở thành bạn thân của ông. Kỳ Lạc được giao việc may vá, thêu thùa trong cung.
Hai đ.ứa t.rẻ đồng hương vô cùng thân thiết với nhau. Thời gian trôi qua, Kỳ Lạc trở thành một thiếu nữ xinh đẹp kiều diễm. Thỏa Hoan Thiệp Mộc Nhĩ, con trai vua Nguyên Văn Tông, một lần chơi đùa trong cung nhìn thấy Kỳ Lạc bèn đưa nàng về phủ. Không lâu sau, Thỏa Hoan lên ngôi vua, lấy hiệu Nguyên Thuận Đế (1320-1370). Kỳ Lạc được phong làm nhị hoàng hậu.
Trở thành mẫu nghi thiên hạ, hưởng thụ vinh hoa phú quý nhưng hoàng hậu Kỳ Lạc vẫn không quên người bạn cũ. Bà điều Phác Bất Hoa tới Hưng Thánh Cung của mình, phong làm Vinh Lộc Đại Phu kiêm Tư Chính Viện Sứ.
Tư Chính Viện là bộ phận chuyên quản lý tài chính trong nước dưới thời Nguyên. Được hoàng hậu ban cho cơ hội tốt, họ Phác không hề bỏ qua. Ông dần sở hữu gia tài kếch xù, đồng thời chia chác t.iền của cho hoàng hậu. Hành vi tham ô của Phác Bất Hoa vô cùng cẩn thận, khéo léo nên không bị triều đình phát hiện.
Ông ta thường mang lễ vật tặng giới quyền quý hoặc hoàng thân quốc thích, khiến mọi người đều tán thưởng. Vua Nguyên bấy giờ vô cùng tín nhiệm họ Phác, thường phái ông đi vi hành, cứu tế.
Video đang HOT
Do có quan hệ thân thiết với hoàng hậu Kỳ Lạc, Phác Bất Hoa liên tục được thăng chức. Các đại thần trong triều đều phải nịnh bợ, không dám làm trái ý ông ta. Tuy nhiên, t.iền tài không thỏa mãn được tham vọng của Phác Bất Hoa. Ông ta bắt đầu ngấp nghé quyền lực trong triều.
Sau khi con trai hoàng hậu Kỳ Lạc được phong hoàng thái tử, họ Phác đặt hết kỳ vọng vào đó. Bữa ăn giấc ngủ của thái tử đều do đích thân ông ta chăm sóc. Vì chán ghét chính sự, chỉ lo hưởng lạc, Nguyên Thuận Đế giao hết quyền lực cho thái tử. Vua còn phong cho Sóc Tư Giám, người được Phác Bất Hoa tiến cử, làm tể tướng. Lúc này, Phác Bất Hoa trở thành nhân vật quyền uy bậc nhất. Từ việc thăng giáng quan thần đến ban hành quốc sách đều do ông ta quyết định.
Chân dung nhị hoàng hậu Kỳ Lạc. Ảnh: Baidu
Do Nguyên Thuận Đế giao hết quyền hành cho Phác Bất Hoa và Sóc Tư Giám, quan thần trong triều dần bất an, các thế lực nổi loạn trong nước bắt đầu tạo phản. Thái tử thấy thế sự bất ổn, bèn lập mưu ép cha thoái vị.
Phác Bất Hoa, Sóc Tư Giám và nhị hoàng hậu Kỳ Lạc đều ủng hộ thái tử, bắt đầu lập mưu tạo phản. Nguyên Thuận Đế phát hiện, bèn lập tức tống họ vào đại lao. Nhân lúc thái tử xuất kinh, Bình La Mộc Nhĩ, một kẻ vốn ghen ghét Phác Bất Hoa và Sóc Tư Giám, đã tranh thủ g.iết c.hết họ.
Bấy giờ, Chu Nguyên Chương đem quân tiến đ.ánh kinh thành nhà Nguyên. Nguyên Thuận Đế thấy đại cục sắp mất, hối hận trách thái tử: “Giang sơn Đại Nguyên của ta đã mất trong tay mẹ con ngươi”. Tuy vậy, lòng vua cũng biết rằng, tất cả đều do mình giao hết quyền vào tay Phác Bất Hoa. Không lâu sau khi Phác Bất Hoa c.hết, triều Nguyên lụi tàn.
Hải Yến
Theo VNE
Thủ tục ly hôn của quý tộc phong kiến Trung Hoa
Vào thời Đường, địa vị nam nữ tương đối bình đẳng, vợ chồng có thể thỏa thuận ly hôn và phải có chứng nhận từ người thân hai bên, nhà trai cũng phải bồi thường cho nhà gái.
Phóng thê thư (giấy bỏ vợ), tức văn bản chứng thực ly hôn của tầng lớp quý tộc vào thời Đường. Ảnh: People's Daily.
Theo People Daily, vào thời cổ đại, việc ly hôn ở Trung Quốc còn khá tự do. Phải đến đầu thời Chu (1046-256 TCN), chế độ gia đình phụ quyền mới dần thiết lập. Từ thời kỳ Tây Chu (1046-771 TCN) đến Xuân Thu Chiến quốc (770-221 TCN), chế độ gia đình phụ quyền vẫn chưa được củng cố, trong Kinh Dịch thậm chí còn ghi lại chuyện vợ bỏ nhà đi.
Đến triều đại của Tần Thủy Hoàng (259-210 TCN), chế độ gia đình mà người đàn ông làm chủ mới vững chắc hơn. Tới thời Đường - Tống (618-1279), ý thức phụ quyền trở nên mạnh mẽ, thân phận người phụ nữ trở nên thấp hèn. Phụ nữ thời này không được tự ý lấy chồng khác, chỉ khi chồng bỏ trốn mới được phép xin quan phủ cho ly hôn.
Việc ly hôn của giới quý tộc cổ đại có những thủ tục nhất định. Theo "Lễ ký", hay còn gọi là "Kinh Lễ", một quyển trong bộ Ngũ Kinh của Khổng Tử, ngoài nghi thức cho chồng bỏ vợ còn có nghi thức cho vợ bỏ chồng, cả bên bỏ và bên bị bỏ đều phải nhẹ nhàng tự kiểm điểm.
Phóng thê thư - chứng nhận ly hôn
Từ bản "Phóng thê thư" của một quý tộc thời Đường (618-907), có thể thấy địa vị nam nữ tương đối bình đẳng. Tờ giấy này có vai trò như đơn ly hôn thời nay nhưng có chút khác biệt. Nội dung của Phóng thê thư thường được chia làm ba đoạn.
Đoạn đầu nhắc lại về duyên phận vợ chồng đồng cam cộng khổ, như cá với nước, vui vẻ bên nhau tới khi bạc đầu. Đoạn thứ hai miêu tả tình trạng hôn nhân hiện tại, hai người tính cách không hòa hợp, thường xảy ra cãi vã khiến họ hàng hai bên trách móc, nay không thể tiếp tục bên nhau. Đoạn cuối cùng là lời chúc phúc sau ly hôn.
Nếu hai người đã không thể chung sống, chẳng thà vui vẻ nói lời từ biệt và chúc nhau hạnh phúc. Phía cuối đơn ly hôn ghi rõ, nhà trai phải gửi phí bồi thường cho nhà gái. Hơn nữa, đơn ly hôn cần được hai bên gia đình, họ hàng thân thích làm chứng.
Chế độ cổ đại Trung Hoa là xã hội nam quyền, phụ nữ phải "tam tòng tứ đức" nhưng đàn ông không được tùy ý bỏ vợ. Việc ly dị giữa vợ chồng phải chịu sắp xếp của gia tộc cũng như tuân theo pháp luật, chịu sự ràng buộc của lý và tình.
Một đôi vợ chồng người Trung Quốc cổ đại. Ảnh minh họa: Sina
Theo "Bạch Cư Dị tập", trên đường mang cơm cho chồng cày cấy ngoài vườn, người vợ gặp cha mình đang đói bèn mời cha ăn cơm. Người chồng đợi lâu nên đói bụng, vô cùng phẫn nộ, khăng khăng đòi bỏ vợ. Người vợ không phục bèn thưa lên quan phủ.
Nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Đường Bạch Cư Dị bình luận: "Theo tiêu chuẩn đức hạnh của phụ nữ, người vợ về lý phải thuận theo chồng, nhưng việc báo đáp ân nghĩa của cha mình là xuất phát từ thiên tính. Vậy nên vợ phải để cha ăn trước, chồng ăn sau. Việc hiếu thuận nặng hơn chuyện vợ chồng, nên người chồng không được bỏ vợ".
Thời cổ đại vô cùng coi trọng trật tự quan hệ xã hội, việc ly dị không được ủng hộ nên tỷ lệ ly hôn rất thấp. Sau thời Tống (960-1279), kẻ sĩ thường cho rằng đàn ông bỏ vợ là vô đạo đức. Thậm chí ở vùng quê, tình trạng bỏ vợ ngày càng ít gặp. Do khó khăn về kinh tế, ly hôn khiến sức lao động trong gia đình giảm sút, trách nhiệm lấy vợ mới cũng rất nặng. Ngoài ra, quan niệm về danh phận cũng ảnh hưởng ít nhiều bởi tư tưởng "phu thê nghĩa trọng" khiến người ta không dễ dàng nói tới ly hôn.
Hải Yến
Theo VNE
Thánh thót tiếng đàn bầu trên đất Trung Hoa Ngoài đàn bầu, trong nhà ông Phát còn có rất nhiều sách viết các bài dân ca Việt Nam bằng chữ Nôm. Tại Trung Quốc có làng người Việt hay còn gọi là thôn dân tộc Kinh định cư đã 500 năm. Dân tộc Kinh ở đây đã được công nhận là 1 trong 56 dân tộc của Trung Quốc, nhưng họ vẫn...