Tạo nền vững chắc để nâng chất lượng giáo dục
Thành phố Hà Nội vừa được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 3, tại thời điểm tháng 12-2021.
Xác định đây không phải là danh hiệu, ngành Giáo dục và Đào tạo Hà Nội quyết tâm duy trì và phát huy kết quả phổ cập đã đạt được, tạo nền vững chắc để nâng chất lượng giáo dục, tiếp tục khẳng định vị thế dẫn đầu cả nước.
Một tiết học của học sinh Trường Trung học cơ sở Liên Hà (huyện Đan Phượng). Ảnh: Nguyễn Quang
Nhiều điểm sáng
Hà Nội hiện có quy mô giáo dục lớn nhất cả nước với hơn 2.800 trường mầm non, phổ thông, hơn 2,2 triệu học sinh. Hà Nội được công nhận phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1 vào năm 2001, đạt mức độ 2 vào năm 2018. Ngày 6-10-2022, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành quyết định công nhận thành phố Hà Nội đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 3, tại thời điểm tháng 12-2021. Hiện tại, Hà Nội là một trong 4 tỉnh, thành phố của cả nước đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 3 (cùng với tỉnh Bắc Ninh, Ninh Bình và Hà Nam). Đã có nhiều điểm sáng làm nên kết quả này của Hà Nội.
Nằm ở phía Tây thành phố, huyện Đan Phượng luôn xác định việc phát triển trường học đạt chuẩn quốc gia là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, tạo nguồn nhân lực tốt, góp phần phát triển kinh tế – xã hội địa phương. Đây cũng là đơn vị dẫn đầu khối huyện về kết quả xây dựng trường chuẩn quốc gia nhiều năm nay. Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Đan Phượng Bùi Thị Thu Hằng cho biết, 53/54 trường học của huyện đã đạt chuẩn quốc gia, trường còn lại đang hoàn thiện để được UBND thành phố Hà Nội công nhận chuẩn quốc gia vào cuối năm nay. 16/16 xã, thị trấn của huyện đều có trường trung học cơ sở xây dựng theo quy hoạch, bảo đảm các điều kiện để học sinh đi lại an toàn, thuận tiện; số phòng học đạt tỷ lệ 1,01 phòng/lớp. Ghi nhận thực tế cho thấy, “đặc sản” của Đan Phượng là hầu hết các trường học đều có thư viện mở ngoài trời, sân chơi và bãi tập rộng rãi…
Trong khi đó, trước áp lực về số lượng học sinh trong độ tuổi tuyển sinh hằng năm tăng, quận Cầu Giấy dành phần lớn ngân sách để phát triển hệ thống trường, lớp, không để xảy ra hiện tượng thiếu chỗ học; đồng thời, có chính sách thu hút sinh viên thủ khoa sư phạm của trường đại học về giảng dạy tại các trường trung học cơ sở. Nhờ đó, hơn chục năm qua, học sinh lớp 9 của quận Cầu Giấy luôn dẫn đầu thành phố về kết quả thi vào lớp 10 các trường công lập.
Video đang HOT
Vượt khó, giữ vị trí dẫn đầu
Thách thức không nhỏ trong công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở nói riêng và trong tổ chức triển khai các nhiệm vụ giáo dục và đào tạo nói chung của Hà Nội là địa bàn rộng, số lượng trường, lớp lớn, các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục ở các địa bàn còn chênh lệch. Các địa phương đã xác định những bất cập, khó khăn cụ thể để có giải pháp khắc phục, quyết tâm giữ vững vị trí dẫn đầu về giáo dục của thành phố Hà Nội.
Theo Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Mỹ Đức Lê Văn Hiến, năm 2021, tỷ lệ thanh, thiếu niên trong độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi tốt nghiệp trung học cơ sở của huyện đạt 97,65% (Nghị định số 20/2014/NĐ-CP ngày 24-3-2014 của Chính phủ về việc phổ cập giáo dục, xóa mù chữ quy định là 95%), song so với một số địa phương còn thấp, do còn hiện tượng học sinh trung học cơ sở bỏ học ở một số xã có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. Để khắc phục, tiến tới chấm dứt hiện tượng học sinh bỏ học, ngoài việc yêu cầu các nhà trường thường xuyên kiểm tra, có biện pháp duy trì sĩ số học sinh, Phòng Giáo dục và Đào tạo tiếp tục tham mưu UBND huyện hỗ trợ chi phí học tập cho học sinh khó khăn, khuyết tật hoặc là người dân tộc thiểu số…
Còn theo Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Mê Linh Nguyễn Văn Hậu, huyện ưu tiên tối đa nguồn lực để đầu tư xây dựng trường học theo 5 tiêu chuẩn của trường chuẩn mức độ 2, nhằm bảo đảm chất lượng dạy học một cách bền vững. Tất cả các trường học đều được đưa vào kế hoạch xây dựng, nâng cấp đạt chuẩn mức độ 2 trong giai đoạn từ nay đến năm 2025 theo lộ trình cụ thể, nguồn kinh phí dự kiến hơn 1.000 tỷ đồng.
Trong đợt kiểm tra, làm việc với lãnh đạo thành phố cùng ngành Giáo dục và Đào tạo Hà Nội (ngày 3, 4 và 5-10-2022), Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Hữu Độ nhấn mạnh, việc được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 3 không phải là danh hiệu, mà phải gắn với trách nhiệm. Thành phố Hà Nội cần triển khai nhiều giải pháp để khắc phục khó khăn và duy trì, phát huy kết quả đạt được, tiếp tục khẳng định vị thế “đầu tàu” của cả nước trong lĩnh vực này.
“Theo quy định về điều kiện kiểm tra công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, nếu hai năm liền thành phố không duy trì được kết quả đạt chuẩn theo mức độ phổ cập giáo dục, thì việc kiểm tra công nhận khôi phục lại được thực hiện như kiểm tra công nhận lần đầu”, Thứ trưởng Nguyễn Hữu Độ lưu ý.
Thúc đẩy quyền tiếp cận giáo dục
Phát triển giáo dục và đào tạo luôn được ảng, Nhà nước ta xác định là quốc sách hàng đầu, đồng thời là cơ sở quan trọng để thực hiện chính sách 'Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc'.
ặc biệt, thời gian qua trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi luôn được ảng và Nhà nước quan tâm chăm sóc đặc biệt, ban hành nhiều chủ trương chính sách hữu hiệu, khuyến khích, ưu tiên.
Cô giáo Pơloong Thị Nhun tại lớp học ở điểm trường thôn Atu (xã Ch'Ơm, huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam).
Tuy nhiên, trên thực tế vì nhiều nguyên nhân vẫn còn không ít trong nhóm đối tượng này đang gặp khó khăn trong thực hiện quyền tiếp cận giáo dục. Thực tế này đòi hỏi cần tiếp tục thúc đẩy quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi, thực hiện hiệu quả mục tiêu tạo nền tảng vững chắc cho phát triển xã hội và bảo đảm quyền con người.
Quyền tiếp cận giáo dục là một trong những quyền quan trọng, cơ bản của con người, giúp phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi cá nhân. ối với trẻ em, quyền được học tập là một trong những quyền tất yếu, được Pháp luật Việt Nam quy định và bảo đảm.
Cụ thể, iều 16 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: "Trẻ em có quyền được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân. Trẻ em được bình đẳng về cơ hội học tập và giáo dục; được phát triển tài năng, năng khiếu, sáng tạo, phát minh". Thúc đẩy quyền tiếp cận giáo dục cũng là một trong những mục tiêu cơ bản trong chính sách phát triển của Việt Nam. iều này được khẳng định trong các chính sách ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn nói chung và đối tượng trẻ em ở những khu vực này nói riêng.
Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, ban hành ngày 4/11/2013, ảng ta khẳng định: "Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách". Trong những năm qua, Chính phủ đã luôn tạo điều kiện để trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tiếp cận giáo dục bằng việc nỗ lực ban hành, hoàn thiện các chính sách nhằm đẩy mạnh xóa mù chữ cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
Về tổng thể, hệ thống chính sách phát triển giáo dục nói chung và chính sách pháp luật bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã được ban hành khá đầy đủ, ngày càng hoàn thiện. Theo thống kê của Vụ Pháp chế, Bộ Giáo dục và ào tạo, có khoảng 50 văn bản từ Luật đến quyết định của Bộ trưởng Giáo dục và ào tạo liên quan đến quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi, bao gồm: chính sách ưu tiên tuyển sinh; miễn giảm học phí; trợ cấp xã hội; học bổng hỗ trợ học tập; chính sách phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người; chính sách tăng cường tiếng Việt cho trẻ em, bảo tồn văn hóa của người dân tộc thiểu số, chế độ đối với giáo viên, cán bộ quản lý...
Những chính sách này hoàn toàn phù hợp và thể hiện rõ trách nhiệm của Việt Nam khi là thành viên của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Bởi iều 28 của Công ước không chỉ yêu cầu các quốc gia thành viên phải thừa nhận quyền của trẻ em được học hành mà còn chỉ rõ, để từng bước thực hiện quyền này trên cơ sở bình đẳng về cơ hội phải: Thực hiện chính sách giáo dục tiểu học bắt buộc, sẵn có và miễn phí cho tất cả mọi người; Khuyến khích phát triển nhiều hình thức giáo dục trung học khác nhau, kể cả giáo dục phổ thông và dạy nghề, làm cho những hình thức giáo dục này sẵn có và mọi trẻ em đều có thể tiếp cận, và thi hành các biện pháp thích hợp như đưa ra loại hình giáo dục miễn phí và cung cấp hỗ trợ tài chính trong trường hợp cần thiết; Dùng mọi phương tiện thích hợp để giúp cho tất cả mọi người, trên cơ sở khả năng của mình, đều có thể tiếp cận với giáo dục đại học; Làm cho những hướng dẫn và thông tin về giáo dục và dạy nghề sẵn có và mọi trẻ em đều có thể tiếp cận được; Có biện pháp khuyến khích việc đi học đều đặn ở trường và giảm tỷ lệ bỏ học. Dựa trên cơ sở này, các chủ trương, chính sách của ảng và Nhà nước đã được hiện thực hóa dưới nhiều hình thức khác nhau và đạt được những kết quả bước đầu khả quan.
Cụ thể, đã có nhiều mô hình trường học dành cho con em đồng bào các dân tộc, như: trường thanh niên dân tộc, trường vừa học vừa làm, trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú, trường dự bị đại học dân tộc, trường thiếu sinh quân... Hệ thống giáo dục từ mầm non đến trung học phổ thông từng bước được củng cố và phát triển.
Tính đến năm 2020, tỷ lệ người dân tộc thiểu số biết chữ đã đạt đến 90%; tỷ lệ trường học kiên cố tăng từ 77,1% (năm 2015) lên 91,3% (năm 2019); tỷ lệ trẻ em đi học đúng tuổi ở các cấp học đều tăng... ây là những thành tựu rất đáng ghi nhận bởi vùng dân tộc thiểu số và miền núi chiếm gần 3/4 diện tích tự nhiên cả nước và là nơi cư trú của 53 dân tộc thiểu số với 14,12 triệu người (chiếm 14,7% tổng dân số).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được hiện vẫn còn không ít khó khăn, thách thức trong quá trình thực hiện quyền tiếp cận giáo dục cho trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi. Thực tế, đây là nhóm đối tượng phải đối diện với rất nhiều trở ngại, tiêu biểu như vấn đề giao thông vì thực tế, các cung đường miền núi vừa xa xôi, hiểm trở lại tiềm ẩn nhiều yếu tố nguy hiểm. Ngoài ra, trường học nhiều nơi vẫn còn là phòng tạm, thiếu thốn cơ sở vật chất như không có phòng chức năng, thiếu các trang thiết bị công nghệ cơ bản...
Vấn đề bất đồng ngôn ngữ trong quá trình dạy học cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm cơ hội đi học ở nhóm trẻ này, bởi các em còn chưa thông thạo tiếng mẹ đẻ lại phải học tiếng phổ thông nên gặp nhiều trở ngại. Từ đây nhiều em nảy sinh tâm lý chán nản, sợ học rồi dẫn đến bỏ học. Bên cạnh đó, nhiều người dân do những khó khăn về kinh tế cộng thêm tư tưởng cổ hủ, trọng nam khinh nữ, ngăn cản không cho con em mình, nhất là các trẻ em gái được đến trường. Những rào cản này khiến việc học tập của các em không chỉ bị gián đoạn mà còn khiến một tỷ lệ nhất định trẻ em không biết chữ, không được đến trường.
Mặt khác, dù hệ thống văn bản pháp luật, chính sách ưu tiên, hỗ trợ giáo dục cho nhóm đối tượng trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi được ban hành khá nhiều nhưng vẫn tồn tại những vấn đề như: chồng chéo chính sách, văn bản quy phạm pháp luật chưa được rà soát, xử lý kịp thời; việc thực thi giám sát thực thi chính sách liên quan quyền tiếp cận giáo dục của các nhóm đối tượng chưa thực sự hiệu quả; sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan còn lỏng lẻo...
ối với trẻ em vùng dân tộc thiểu số và miền núi, giáo dục được xem là phương thức hiệu quả nhất đem lại cơ hội phát triển bình đẳng, giúp thay đổi tương lai cho các em. Theo đánh giá của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNICEF Việt Nam), việc không được đến trường không chỉ làm giảm tiềm năng cá nhân của các em mà còn làm tăng các chu kỳ nghèo đói và bất lợi của mọi thế hệ và cả quốc gia.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế-xã hội nhanh chóng của Việt Nam, trẻ em nói chung và trẻ em người dân tộc thiểu số, miền núi nói riêng không được tiếp cận nền giáo dục có chất lượng, cũng đồng nghĩa với việc đánh mất một nguồn tăng trưởng tiềm năng của đất nước. Không những thế, tình trạng này còn dẫn tới nhiều hệ lụy khác như việc khó hòa nhập giữa các vùng miền, dân tộc, dẫn đến cơ hội để thực hiện quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cũng sẽ hạn chế hơn.
Thực tế, mặt bằng giáo dục, trình độ dân trí của đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn còn có khoảng cách đáng kể với các dân tộc đa số khác; tỷ lệ mù chữ và tái mù chữ vẫn còn khá lớn; tỷ lệ người có trình độ học vấn cao rất thấp... ặc biệt trong kỷ nguyên số hiện nay, các việc làm truyền thống dần mất đi nên cơ hội học tập, làm việc ngày càng nhiều thách thức đối với trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi. Do đó, thúc đẩy hơn nữa quyền tiếp cận giáo dục cho nhóm đối tượng này là nhiệm vụ hết sức quan trọng, không chỉ giúp các em được học tập, làm việc bình đẳng mà còn góp phần giảm khoảng cách giàu-nghèo, mang lại cơ hội hòa nhập giữa các vùng miền.
ể giải quyết tình trạng nêu trên cần có các giải pháp đồng bộ, cũng như sự phối kết hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các bộ, ban, ngành và hệ thống chính quyền tại địa phương giúp thúc đẩy quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi đạt được hiệu quả như mong muốn. Song song với việc duy trì thực hiện đầy đủ những chính sách, pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền học tập, cần tiến hành rà soát làm cơ sở bổ sung những điều khoản cho phù hợp với tình hình thực tiễn; thực hiện cơ chế giám sát, bảo đảm các chính sách, pháp luật được thực thi đúng, đủ, kịp thời.
Bên cạnh đó, cần tăng cường nguồn vốn đầu tư ngân sách nhà nước đáp ứng các yêu cầu về xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất trường, lớp, điểm trường, trường nội trú nhằm cung cấp môi trường học tập an toàn và hiệu quả cho các em; tạo điều kiện cho trẻ em dân tộc thiểu số tiếp cận công nghệ và phương pháp giáo dục hiện đại; nâng cao năng lực giáo viên; rút ngắn rào cản ngôn ngữ.
Xây dựng chương trình giáo dục mầm non mới, dựa trên quan điểm gì? Theo đánh giá của Bộ trưởng Bộ GDĐT, trước yêu cầu cao hơn của quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, chương trình giáo dục mầm non được triển khai trong thời gian qua tuy đã tốt nhưng chưa đủ. Chương trình hiện hành tốt nhưng chưa đủ Chương trình Giáo dục Mầm non được Bộ trưởng...