Tăng cường y tế cơ sở đáp ứng bệnh không lây nhiễm
Việt Nam đang trong tiến trình thực hiện tốt kế hoạch toàn cầu về bệnh không lây nhiễm (KLN). Đến nay, Việt Nam đã đạt được 9 trong số 19 chỉ số đánh giá tiến độ và năng lực đáp ứng quốc gia về phòng chống bệnh KLN.
Ảnh minh họa
BỆNH KLN CÓ SỐ LƯỢNG TỬ VONG CAO NHẤT Ở VIỆT NAM
Bệnh KLN đang trở thành nhóm bệnh có số lượng tử vong cao nhất trên thế giới hằng năm với con số 40 triệu người (chiếm 70-75% số lượng tử vong trên toàn cầu) và vẫn tiếp tục tăng lên.
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế, PGS.TS. Nguyễn Trường Sơn, bệnh KLN cũng đang là nhóm bệnh có tỷ lệ tử vong cao nhất ở Việt Nam. Cứ 10 người tử vong thì có gần 8 người mắc và tập trung ở các bệnh như tim mạch, đái tháo đường, ung thư và bệnh phổi mạn tính. Ước tính, trung bình mỗi năm nước ta có khoảng 12,5 triệu người bị tăng huyết áp (THA), 3,5 triệu người bị bệnh đái tháo đường (ĐTĐ), 2 triệu người mắc bệnh tim, phổi mạn tính và gần 126.000 ca mắc mới ung thư, rối loạn tâm thần. Thường gặp nhất ở người cao tuổi là trầm cảm, sa sút trí tuệ. Tỷ lệ trẻ em mắc tự kỷ hàng năm tăng. Các bệnh KLN gây ra 73% các trường hợp tử vong hằng năm và trong số đó có tới 40% tử vong trước 70 tuổi. Bệnh KLN gây tàn phế nặng nề và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh nếu không được phát hiện sớm và điều trị, theo dõi, chăm sóc lâu dài theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Các bệnh KLN chính gây ra các tử vong là bệnh tim mạch (chiếm 44%), ung thư (chiếm 22%), bệnh phổi mạn tính (chiếm 9%), đái tháo đường (chiếm 4%).
Nguyên nhân của tình trạng này do nhiều người dân chưa có ý thức phòng bệnh. Các nguy cơ chủ yếu liên quan đến hành vi lối sống như hút thuốc lá, lạm dụng rượu, bia, chế độ dinh dưỡng không hợp lý, ít hoạt động, áp lực, căng thẳng và một số các nguy cơ khác… Vẫn còn 45% nam giới hút thuốc lá, 77% dân số uống rượu, chế độ dinh dưỡng không phù hợp, số người thừa cân béo phì không ngừng tăng. Bên cạnh đó, người dân Việt Nam sử dụng muối cao gấp đôi so với khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (9,4gram/ngày). Tỷ lệ người mắc bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường, nguy cơ tim mạch, ung thư, tâm thần được phát hiện sớm và quản lý điều trị còn thấp, chỉ dưới 50%…
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, 80% số ca bệnh tim mạch giai đoạn đầu, đột quỵ, đái tháo đường tuýp 2 và trên 40% ung thư có thể được phòng ngừa thông qua ăn uống hợp lý, hoạt động thể lực đều đặn, không hút thuốc lá.
PHÒNG, CHỐNG BỆNH KLN Ở TRẺ EM, HỌC SINH, SINH VIÊN
Video đang HOT
Trước sự gia tăng ngày càng trầm trọng của các bệnh KLN, ngày 8-1-2019, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Bảo đảm dinh dưỡng hợp lý và tăng cường hoạt động thể lực cho trẻ em, học sinh, sinh viên để nâng cao sức khỏe, dự phòng bệnh ung thư, tim mạch, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và hen phế quản giai đoạn 2018 – 2025″.
Theo PGS. TS. Nguyễn Thanh Đề, quyền Vụ trưởng, Vụ Giáo dục thể chất, Bộ Giáo dục và Đào tạo, việc chú trọng dinh dưỡng hợp lý, tăng cường hoạt động thể lực và phòng, chống các bệnh KLN từ trong gia đình và trường học sẽ tạo nên thói quen thực hành dinh dưỡng hợp lý và tăng cường các hoạt động thể lực sẽ lan tỏa tới các cộng đồng và toàn xã hội, giúp người dân có nhận thức đúng, phát hiện sớm và kiểm soát các yếu tố nguy cơ của bệnh KLN. Nếu được phát hiện sớm, tư vấn, can thiệp và điều trị kịp thời, sẽ góp phần giảm tỷ lệ mắc các bệnh KLN ở lứa tuổi học đường, nâng cao chất lượng sức khỏe cho trẻ em, học sinh, sinh viên, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và giúp ngành giáo dục thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho trẻ em, học sinh, sinh viên.
Tỷ lệ thừa cân, béo phì có xu hướng gia tăng, đặc biệt là ở khu vực thành thị và các thành phố lớn. Chiều cao nam và nữ thanh niên Việt Nam thấp hơn so với mức khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới; sức bền và sức mạnh của thanh niên Việt Nam được xếp vào mức thấp so với chuẩn quốc tế, chỉ có 20,5% học sinh có hoạt động thể lực ít nhất 60 phút/ngày và từ 5 ngày trở lên/tuần, đáp ứng mức khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới.
Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới” đề ra mục tiêu đến năm 2025, phấn đấu hơn 90% dân số được quản lý sức khỏe; 95% trạm y tế xã, phường, thị trấn thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh KLN. Đến năm 2030, phấn đấu hơn 95% dân số được quản lý sức khỏe; 100% trạm y tế, xã, phường, thị trấn thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh KLN.
DỰ PHÒNG, QUẢN LÝ ĐIỀU TRỊ BỆNH KLN Ở TUYẾN Y TẾ CƠ SỞ
Để khống chế và đẩy lùi các bệnh KLN, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 376/QĐ-TTG ngày 20-3-2015 “Phê duyệt chiến lược quốc gia phòng, chống bệnh ung thư, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẹn mạn tính, hen phế quản và các bệnh KLN giai đoạn 2015-2020″.
Bộ Y tế ban hành Quyết định số 2559/Q-BYT về kế hoạch tăng cường thực hiện điều trị, quản lý THA, T theo nguyên lý y học gia đình tại các trạm y tế xã, phường, thị trấn giai đoạn 2018- 2020, với các mục tiêu cụ thể như: ến năm 2019, 100% số trạm y tế được đào tạo về dự phòng, phát hiện sớm, chẩn đoán, điều trị, quản lý tăng THA và T theo nguyên lý y học gia đình. ến năm 2020, ít nhất 70% trạm y tế thực hiện dự phòng, phát hiện sớm, chẩn đoán, điều trị, quản lý THA theo nguyên lý y học gia đình; ít nhất 40% trạm y tế thực hiện dự phòng, phát hiện sớm, điều trị và quản lý T theo nguyên lý y học gia đình. ến năm 2020, ít nhất 40% người trưởng thành từ 40 tuổi trở lên được đo huyết áp và đánh giá nguy cơ T..
Theo chương trình phòng chống các bệnh KLN của Bộ Y tế, thì nhân viên y tế tuyến cơ sở (tuyến xã) có vai trò thực hiện phòng bệnh cho cộng đồng thông qua giáo dục thay đổi hành vi nguy cơ; xác định những người có nguy cơ mắc bệnh và tác động để loại bỏ các yếu tố nguy cơ đó; sàng lọc, chẩn đoán sớm và chuyển tuyến trên để chẩn đoán và điều trị kịp thời. Quản lý, theo dõi người bệnh đã được điều trị ổn định ở tuyến trên.
ể thực hiện các mục tiêu trên, Bộ Y tế đã tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan để phát huy vai trò bác sĩ đa khoa, bác sĩ gia đình trong thực hiện dự phòng, phát hiện sớm, chẩn đoán, điều trị, quản lý THA, T; sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp quy để bảo đảm người bệnh THA, T khi các cơ sở KCB tuyến trên kê đơn điều trị, sẽ được tiếp tục tiếp cận các thuốc này tại cơ sở khám chữa bệnh (KCB) tuyến huyện và trạm y tế xã. Ngành y tế cũng xây dựng tài liệu hướng dẫn về giám sát, báo cáo hoạt động điều trị, quản lý THA và T theo nguyên lý y học gia đình tại các trạm y tế xã. Tổ chức các khóa tập huấn cho cán bộ y tế tại các trạm y tế xã, phường, thị trấn về quản lý lồng ghép THA và T tại trạm y tế; dinh dưỡng và hoạt động thể lực trong quản lý điều trị THA và T; triển khai hoạt động dự phòng, quản lý điều trị bệnh KLN tại tuyến y tế cơ sở./.
Lê Thoa
Theo tuyengiao.vn
Ăn mặn, hảo đường: Người Việt đang tự giết mình
PGS.TS Nguyễn Thị Xuyên - Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam bệnh không lây nhiễm đang trở thành nhóm bệnh có số lượng tử vong cao nhất trên thế giới với khoảng 40 triệu người tử vong hàng năm và vẫn đang gia tăng.
Ăn mặn và hảo ngọt làm tăng tình trạng bệnh tật không lây nhiễm.
Gánh nặng bệnh tật
Ở Việt Nam nó cũng là nhóm bệnh có tỷ lệ tử vong cao nhất, cứ 10 người tử vong thì có 7 người mắc và tập trung ở các bệnh như: tim mạch, đái tháo đường, ung thư và bệnh phổi mạn tính. Ước tính, trung bình mỗi năm nước ta có khoảng 12 triệu người bị tăng huyết áp, gần 3 triệu người bị bệnh đái tháo đường, 2 triệu người mắc bệnh tim, phổi mạn tính và gần 126.000 ca mắc mới ung thư, rối loạn tâm thần - thường gặp nhất ở người cao tuổi là trầm cảm - sa sút trí tuệ là rối loạn nặng nề nhất, tỷ lệ trẻ em mắc tự kỷ hàng năm tăng; các bệnh không lây nhiễm gây ra 73% các trường hợp tử vong hàng năm và trong số đó có đến 40% tử vong trước 70 tuổi.
Bên cạnh đó các bệnh không lây nhiễm còn gây tàn phế nặng nề và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh nếu không được phát hiện sớm và điều trị, theo dõi, chăm sóc lâu dài theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Nguyên nhân của tình trạng này là do nhiều người dân chưa có ý thức phòng ngừa bệnh: vẫn còn 45% dân số nam giới hút thuốc lá, 77% dân số uống rượu, chế độ dinh dưỡng không phù hợp, số người thừa cân béo phì không ngừng tăng.
Bên cạnh đó, người dân Việt Nam sử dụng muối cao gấp đôi so với khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (9,4gram/ngày). Tỷ lệ người mắc bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường, nguy cơ tim mạch, ung thư, tâm thần được phát hiện sớm và quản lý điều trị còn thấp, chỉ dưới 50%...
Giảm muối, giảm đường
Theo nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng quốc gia, người Việt còn ăn quá mặn. Đối với muối (NaCl), được cấu thành từ hai nguyên tố hóa học là Natri và Chlorua. Theo Viện Dinh dưỡng Quốc gia, một thìa 5g muối chứa khoảng 2.000mg natri, tương đương với lượng muối chỉ nên dùng trong ngày với một người trưởng thành. Trẻ nhỏ dưới một tuổi, lượng muối được Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo dưới 1,5g và trẻ sơ sinh ăn dưới 0,3g muối.
Trong khẩu phần ăn hàng ngày, lượng natri có hai nguồn gốc: từ tự nhiên có trong thực phẩm và chủ yếu từ việc bổ sung thêm muối cùng các gia vị mặn khi chế biến, chấm thức ăn. Theo nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, 81% lượng muối tiêu thụ hàng ngày tại nước ta chủ yếu là từ muối và các gia vị trong quá trình chế biến, nấu nướng và khi ăn. 11% muối từ thực phẩm chế biến sẵn, trong thực phẩm tự nhiên chỉ chiếm 7%. Bột canh và nước mắm là nguồn chính cung cấp muối hàng ngày, cùng với mì chính và muối tinh.
Ăn quá 5g muối mỗi ngày sẽ làm tăng trương lực thành mạch, ứ nước trong tế bào, tăng sức cản ngoại vi gây tăng huyết áp. Thế nhưng trong thực tế thì mức tiêu thụ muối trung bình của người Việt Nam là 9,4g/ngày, trong khi Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo chỉ nên sử dụng 5g/ngày. Ăn nhiều muối là một trong những nguyên nhân của sự gia tăng các bệnh không lây nhiễm nói chung và bệnh tim mạch nói riêng. Nó cũng là yếu tố nguy cơ rất quan trọng đối với tăng huyết áp và đái tháo đường.
Theo thống kê của Viện Tim mạch quốc gia, cứ 5 người trưởng thành thì có một người bị tăng huyết áp, cứ 3 trường hợp tử vong thì có một trường hợp do các bệnh tim mạch, chủ yếu là tai biến mạch máu não. Tỷ lệ người bị tăng huyết áp chưa được chẩn đoán là gần 57%, đái tháo dường 70%, hơn 86% người bị tăng huyết áp chưa được quản lý bệnh.
Cùng với sử dụng quá nhiều muối, Tổ chức Y tế thế giới cũng cảnh báo, người Việt Nam sử dụng quá nhiều đường. Cụ thể, mức tiêu thụ đường trung bình của người Việt Nam là 46,5g/ngày, trong khi mức khuyến cáo của WHO là 25g/ngày.
Việc sử dụng nhiều đường khiến cho tỷ lệ béo phì ở Việt Nam tăng nhanh nhất Đông Nam Á. Dư thừa năng lượng dẫn đến tích lũy mỡ, rối loạn chuyển hóa, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh không lây nhiễm như thừa cân - béo phì, tăng huyết áp, loãng xương.
Nói về việc người Việt ăn ngọt, PGS Lê Bạch Mai - nguyên Phó viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho rằng hảo ngọt ở người Việt nhìn từ cốc sữa của trẻ. Sữa dành cho trẻ em Việt cũng ngọt hơn bình thường, thói quen thích ăn ngọt, bánh ngọt, bánh kẹo tạo ra những "đầu lưỡi" chỉ thích ngọt và điều này gây tăng tình trạng bệnh tật.
Theo thống kê của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, tỷ lệ người trưởng thành bị thừa cân - béo phì chiếm khoảng 25% dân số. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị béo phì tăng nhanh từ mức 0,6% (năm 2000) lên 5,3% kể từ sau năm 2015. Sau 10 năm (2002-2012), tỷ lệ người mắc bệnh đái tháo đường tăng thêm 2 lần từ 2,7% lên 5,4%. Hiện tại, cả nước đang có trên 3,5 triệu người đang chung sống với bệnh đái tháo đường.
Để phòng tránh bệnh tăng huyết áp, tiểu đường, các chuyên gia y tế khuyến cáo, chú ý giảm lượng muối ăn vào hàng ngày; thường xuyên đo huyết áp và đánh gái nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường. Hạn chế sử dụng đồ uống có đường vì đồ uống có đường là nguồn đường chính trong khẩu phần ăn và việc tiêu thụ.
Theo infonet
Bệnh từ miệng mà vào: Những cách ăn tai hại của người Việt Tại Hội thảo về phòng chống Bệnh không lây nhiễm lần thứ VIII do Tổng hội y học Việt Nam tổ chức mới đây, các chuyên gia đã cùng nhau đánh giá gánh nặng bệnh tật do bệnh không lây nhiễm gây ra, trong đó chủ yếu nguyên nhân đến từ lối sống. Bệnh do ăn uống vô tội vạ Bệnh từ miệng...