Tâm sự của một giáo viên về thưởng Tết
Tết đang đến gần. Tôi đi đến đâu bạn bè cũng hỏi thăm rằng năm nay thưởng Tết có cao không. Những lúc ấy, tôi chỉ mỉm cười mà nói rằng trường mình không có thưởng. Rất nhiều người tỏ vẻ không tin, nhưng đó là sự thật.
Cả một năm làm việc mệt mài ai chẳng mong thưởng Tết để đón xuân được vui vẻ, trọn vẹn. Tuy nhiên, đặc thù của ngành Giáo dục là không làm ra sản phẩm nên không có thưởng. Tết của nhà giáo là chỉ là những nụ cười cùng niềm vui tự tạo. Chúng tôi vẫn vui vẻ an nhiên đón mùa xuân mới.
Thực ra, giáo viên không hẳn không có thưởng. Hiện nay kinh phí các trường đa số là tự chủ. Nếu trường nào chi tiêu hợp lí thì cuối năm dư ra sẽ thưởng cho giáo viên. Những giáo viên ở thành phố thì cơ bản là ổn. Còn những giáo viên ở vùng sâu, vùng xa thì thưởng Tết chỉ mang ý nghĩa tượng trưng. Có trường co kéo khéo thì được vài trăm ngàn, còn lại chỉ là chai dầu ăn, bịch bột ngọt. Nhiều giáo viên hay đùa mình thua cả công nhân. Công nhân còn có tháng lương thứ 13. Còn giáo viên chúng tôi chỉ gói ghém là phần quà mà công đoàn mua tặng.
Thế nhưng chưa khi nào chúng tôi cảm thấy buồn khi không có thưởng. Để tăng thêm thu nhập và có tiền chăm lo cho Tết thì giáo viên chúng tôi cũng xoay sở đủ thứ nghề. Từ chăn nuôi tăng gia đến bán hàng trên mạng. Nào quần áo, hàng đặc sản nhà làm… Ai cũng tất bật với mong muốn có được cái tết trọn vẹn, đủ đầy.
Những ngày này tới trường, thầy cô hồ hởi bàn tán Tết sắp về. Mỗi người đều có những dự định khác nhau. Ai cũng mong kiếm thêm được ít tiền để sắm sửa cho gia đình được đủ đầy, hạnh phúc.
Ngay như bản thân tôi cũng thế, mỗi khi Tết về là cả hai vợ chồng lại cùng nhau cố gắng. Chúng tôi thường tự mình tạo ra niềm vui cho mình. Đầu tiên là tích cực tăng gia để cải thiện gia đình. Tất cả mọi thứ chuẩn bị cho Tết đều được chúng tôi tự làm. Nào là trồng trước nhà vài khóm hoa. Rồi hai vợ chồng tự tay làm giò, chả, bánh mứt. Thôi thì vẫn vui… như Tết.
Nhưng niềm vui ngày tết của giáo viên chúng tôi thì khó có ngành nào có được. Những ngày Tết các em nô nức kéo đến chúc cô bằng những lời chúc chân tình. Thầy trò ngồi bên nhau quanh đĩa bánh kẹo đơn giản mà vui quá chừng. Tình cảm ấy không có tiền bạc nào có thể mua bán được.
Video đang HOT
Người ta bây giờ thường nhìn nghề giáo bằng ánh mắt không mấy thiện cảm. Người ta bảo nghề giáo vì tiền mà dần mất đi nhân cách. Nhưng tôi luôn nghĩ nghề nào cũng có những “con sâu”. Không nên đánh đồng tất cả các giáo viên như thế. Cái quan trọng là mình sống đúng với lương tâm và trách nhiệm của mình. Học trò nhìn nhận sự việc luôn chính xác.
Tôi vẫn luôn vui và hạnh phúc với nghề mình đã chọn. Dẫu Tết về chẳng thưởng được bao nhiêu. Gia tài lớn nhất của thầy cô là sự thành đạt của học trò. Năm nào cũng thế, cứ sáng mồng một, tôi sẽ nhận hàng trăm lời chúc mừng của học trò. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ tôi hạnh phúc vô bờ. Tôi nghĩ, cứ gieo những nhân lành ắt sẽ gặt được những trái ngọt.
Một mùa xuân nữa lại về, khắp các nẻo đường mai vàng lại rực rỡ. Chúc tất cả các thầy cô đón một cái Tết trọn vẹn và vui vẻ.
Theo Dân Trí
Cô giáo của học trò Đan Lai
Đồng lương giáo viên ít ỏi, kinh tế gia đình không khá giả gì, còn phải nuôi 2 con nhỏ, nhưng cô giáo người Thái vẫn rộng lòng nhận 6 đứa trẻ Đan Lai về nhà nuôi ăn ở, học hành.
ảnh minh họa
Những đứa trẻ ấy giờ đã học lên cấp 2, còn cô giáo vẫn tiếp tục nhận đỡ đầu những em học sinh khó khăn khác, để đường đến trường của các em bớt gập ghềnh hơn...
Vào khe dạy học
"Ra trường, nhận công tác, là tôi được phân công vào "trong khe" luôn" - cô giáo Vi Thị Cúc kể lại. Trong khe ở đây là vùng đất Khe Khặng gồm những bản nhỏ như Khe Búng, Cò Phạt, Khe Lẻ, Khe Cồn... nơi sinh sống của bà con tộc người Đan Lai tận trong lõi rừng quốc gia Pù Mát.
Ấy là vào năm 1998. Sau một ngày vượt rừng, vượt khe, cô giáo trẻ cùng 4 đồng nghiệp đều đang ở lứa tuổi đôi mươi đặt chân đến điểm trường Khe Búng,Trường Tiểu học 3 Môn Sơn (huyện Con Cuông, Nghệ An). Trường học bằng tranh tre, mấy tấm gỗ đóng sơ sài thành bàn ghế. Nhà công vụ của giáo viên cũng chỉ được ghép tạm bằng mấy tấm phên, trên lợp bằng lá cọ, trống hoác. Nhìn nhau rơi nước mắt. Đêm đầu tiên, rừng sâu tĩnh mịch, gió lạnh lùa qua khe cửa, ngọn đèn dầu phập phù. "Mỗi đứa ngồi một góc, cứ thế khóc thút thít, không thành tiếng", cô Cúc nghẹn giọng.
Cô Vi Thị Cúc là người dân tộc Thái, ở xã Lục Dạ, huyện Con Cuông. Sinh ra từ mái nhà sàn, đối với cô, núi rừng, sông suối chẳng phải là điều xa lạ. Nhưng ở đây, trong rừng sâu này, là một thế giới khác, biệt lập vô cùng. Đó là điểm dừng chân của người dòng họ La (làng Đan Nhiệm, huyện Thanh Chương) xa xưa, trong cuộc chạy trốn lịch sử dài qua bao nhiêu thế hệ khỏi chúa đất độc ác.
Đến nỗi họ phải bỏ đi phong tục tập quán cũ, bỏ cả tiếng nói, gốc gác dân tộc Kinh của mình, để không ai có thể tìm thấy. Cho đến khi thời cuộc đổi thay, nỗi sợ hãi năm xưa trôi vào quên lãng thì họ đã thành một tộc người mới - Đan Lai - với ngôn ngữ mới, cùng nhiều tập tục kỳ lạ sống bí ẩn giữa đại ngàn. Và những người thầy, người cô vào đây, phải vừa dạy vừa học. Học tiếng nói, học giao tiếp, học làm quen với cuộc sống của bà con, và học cách dạy dỗ cho những đứa trẻ của vùng đặc thù mà chưa một giáo trình hay giờ thực tập nào của trường sư phạm từng nhắc đến.
Nhưng khi chạm vào mắt những đứa trẻ Đan Lai, thì trong lòng thầy cô lại chùng xuống. "Các em ngây thơ quá, chưa biết gì cả, thầy cô nói sao nghe đó, làm cho mình tự thấy có trách nhiệm cần phải chăm sóc, lo lắng, quan tâm", cô Cúc nói. Vậy là lại gạt đi những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn để đứng lớp. Ở trong này, ngoài bộ đội biên phòng ra, thì chỉ có các thầy cô giáo tìm đến đây, ở lại và đem dạy cái chữ cho trẻ con nên dân bản thương và quý lắm.
Giáo viên thiếu thốn nhiều thứ, nhưng họ cũng nghèo khổ, làm gì có để cho thầy, cho cô, chỉ có khoai ăn khoai, có sắn ăn sắn với nhau. Mùa đông lạnh cóng, những đứa trẻ đến lớp, chỉ có cái áo mỏng, còn lại không có quần, không dép, không mũ. Thế là cô Vi Thị Cúc nghĩ ra các trò chơi vận động, làm nóng người, để các em quên đi cái rét mới bắt đầu học được. Giờ ra chơi, cô trò đốt lửa ngồi xung quanh sưởi ấm. Cô đã dạy cho các em rất nhiều hoạt động tập thể, hát múa, kể chuyện. Cũng chính nhờ thế mà khuấy động phong trào học tập ở bản làng này sôi nổi hẳn lên. "Các em cũng thích đi học, thích đến trường hơn, giảm hẳn tình trạng học sinh bỏ học", cô giáo mỉm cười nhớ lại...
Nhận nuôi học sinh Đan Lai
Năm học 2013 - 2014, theo chủ trương của ngành giáo dục, lớp học ở bản Khe Lẻ xóa bỏ, có 7 em học sinh ở đây được về điểm trường chính Môn Sơn 3. Nhà trường, Phòng GD&ĐT huyện Con Cuông họp vận động phụ huynh gửi con đến nhà họ hàng, hoặc người quen để các em được tiếp tục đi học. Nhưng bà con Đan Lai nhất định không chịu. Thời điểm đó, cô Cúc mới được "trả" về điểm trường chính. Bà con ý kiến: Nếu cô Cúc mà nhận nuôi các cháu, thì cho các cháu ra trường đi học; còn gửi người khác không yên tâm.
"Lúc dạy học ở bản, các cháu cũng quen học tập, ăn uống cùng cô như mẹ rồi, nên thấy phụ huynh nói thế, thì tôi nhận, vừa là giúp nhà trường, nhưng cũng vì thương các em". Mấy đứa trẻ từ lớp 1 đến lớp 4, về hết nhà cô giáo. Chồng đi làm xa, một mình nuôi 2 con nhỏ, quản thêm 6 đứa học trò ở tuổi quậy phá, nghịch ngợm, cô Vi Thị Cúc xoay như chong chóng. Sáng cô dậy nấu cơm, gọi lũ trẻ dậy, chở mấy chuyến mới đưa hết các em đến trường.
Chẳng may ốm đau cũng là cô đưa đi bệnh viện khám. Các em ở trong khe ra còn giữ nhiều nét sinh hoạt hoang dã, mất vệ sinh, cô phải dạy lại từ đầu, từ tắm rửa, đến giặt quần áo, cách nói chuyện, hòa nhập với nơi ở mới... "Thấy cô vất vả nên bố mẹ các em đưa tiền chế độ học sinh dân tộc thiểu số cho cô để mua thức ăn. Tôi cũng ghi chép rõ ràng các khoản chi tiêu, sau này, vẫn còn dư tiền để gửi lại cho phụ huynh. Đến năm học sau thì các em đã quen với trường mới, bố mẹ các em cũng tìm được nhà để gửi con nên cô được nghỉ trông trẻ. Năm học sau, tôi lại tiếp tục nhận nhiệm vụ cắm bản trong khe".
Những năm tháng tuổi trẻ đi biền biệt, nhớ chồng, nhớ con quay quắt, đứt ruột gan. Đến nỗi người chồng thương yêu và thông cảm cho vợ rất nhiều, vẫn đôi lần nổi giận: "Tại sao em cứ đi suốt như thế?" Ngày xưa phải đi bộ, mất cả ngày trời nên không phải lúc nào cũng về được. Đến khi có thuyền máy chạy dọc theo sông Giăng để về nhà, thì tiền xuống đắt quá. "Mỗi chuyến là 30 nghìn, cả về lẫn đi là 60 nghìn, mà hồi đó lương của tôi chỉ có khoảng 400 nghìn/tháng. Nếu đi về liên tục thì lấy tiền đâu nuôi con, nên đành phải nhịn, mỗi tháng chỉ dám về một lần", cô Cúc .
Thời gian dạy học ở gần nhà dài nhất là 3 năm, khi ấy, cô Cúc sinh 2 cháu. Khi cháu lớn 3 tuổi, cháu nhỏ tròn 10 tháng, là cô phải xa con tiếp tục đi "nghĩa vụ". Căng sữa, xót con, nhưng chiều chủ nhật, cô giáo lại trở vào điểm trường, với học sinh. Trường thiếu giáo viên, ai cũng có hoàn cảnh, người sức khỏe yếu, người mới sinh, người thì có cha mẹ già... nên phải chia nhau để cắm bản thôi. Mình là người lớn, mình hiểu được điều đó, nhưng trẻ con, nó không hiểu. Đến giờ, cháu thứ 2 của tôi thỉnh thoảng vẫn hờn mẹ, và tỵ nạnh anh trai, vì "lúc mới sinh anh được ở gần mẹ nhiều hơn, còn em mới 10 tháng mẹ đã vào trong khe rồi, nên em còi, chậm lớn, anh phải nhường nhịn và chăm sóc em"...
Khi tôi vào trong khe, đến 2 điểm trường Khe Búng và Cò Phạt, đi con đường mà cô giáo Vi Thị Cúc đã quen thuộc đến từng cái dốc Có, dốc Cổng trời... dù giờ đây đã đỡ khổ hơn, nhưng vẫn vô cùng chật vật. Vào đến nơi, là cảnh tượng yên bình. Là người người dân bản hiền lành, thật thà. Là tình cảm quý mến thầy cô. Và khi nhắc đến cô giáo Vi Thị Cúc, ai nấy đều nói: Nhớ chứ, cô dạy con ta mà, cô giáo của học sinh Đan Lai mình đó"!
Theo Giaoducthoidai.vn
Dự kiến lương giáo viên cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính? Một trong những thay đổi lớn trong dự thảo Luật Giáo dục sửa đổi mà Bộ GD&ĐT đang soạn thảo và trình Chính phủ là lương của nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp. Tăng lương giáo viên- có giải quyết hết bất cập? (Ảnh minh họa) Tăng lương giáo viên, miễn học phí...