Tại sao đại học Phần Lan vắng bóng trong các bảng xếp hạng?
Nhiều ý kiến cho rằng Phần Lan vắng tên trong bảng xếp hạng thế giới do tiêu chí coi trọng nghiên cứu và phát minh, trong khi giáo dục nước này hướng tới phát triển con người.
Khi nói đến những nền giáo dục tốt nhất trên thế giới, người ta thường nhắc đến cái tên Phần Lan. Theo Báo cáo Phát triển Con người của Liên Hợp Quốc năm 2008, chỉ số giáo dục của quốc gia này thuộc hàng cao nhất thế giới với điểm số 0,993.
Bên cạnh đó, Phần Lan cũng được xếp hạng cao nhất trên thế giới về cải tiến, khởi nghiệp và sáng tạo trong giáo dục. Mọi giáo viên ở quốc gia này phải có trình độ từ thạc sĩ trở lên.
Tự hào về những thành công đạt được, Bộ Giáo dục Phần Lan cho rằng kết quả này là nhờ hệ thống giáo dục thống nhất, giảng viên có thẩm quyền cao và các trường có quyền tự chủ.
Song, trên thực tế, các trường đại học của Phần Lan thường xuyên giữ thứ hạng thấp hoặc vắng bóng trong các bảng xếp hạng.
Dù được đánh giá cao về nền giáo dục, Phần Lan thường xuyên vắng bóng trong các bảng xếp hạng đại học quốc tế.
Trong bảng xếp hạng Times World University năm 2017, Đại học Helsinki là ngôi trường duy nhất lọt vào top 100. Các trường còn lại rải rác từ thứ hạng 190 đến 600. Tại QS World University Rankings năm 2017, trường đại học lớn nhất của Phần Lan thậm chí không lọt top 100. Mới đây, cái tên của quốc gia này cũng hoàn toàn vắng bóng trong top 100 trường đại học đổi mới ở châu Âu.
Kirsti Menna, thạc sĩ ngành Kiến trúc của Đại học Công nghệ Helsinki, cho rằng một phần nguyên nhân đến từ quy mô dân số.
“Phần Lan rộng 338.440 km2 trong khi dân số chỉ có 5 triệu người. Mật độ trung bình thưa thớt, khoảng 18 người/km2″, bà viết.
Phụ nữ này thông tin tại Phần Lan, các trường đại học phải tuân theo chính sách khu vực. Theo đó, những trường này phải được phân bố theo khoảng cách hợp lý đối với người dân. Quy mô nhỏ, dân số thưa dẫn đến hạn chế nguồn lực cho nghiên cứu và hợp tác quốc tế.
Video đang HOT
Bên cạnh đó, không giống các nền giáo dục khác (như Anh, Pháp, Mỹ), mảng nghiên cứu tại Phần Lan không tập trung chủ yếu ở các trường đại học mà phân bố đều sang các công ty nên số lượng nghiên cứu tại các trường càng giảm.
Ngoài ra, các bảng xếp hạng thế giới thường đánh trọng số bài nghiên cứu khoa học và phát minh cao trong khi giáo dục Phần Lan hướng đến phát triển con người. Do đó, trừ trường đại học lớn nhất ở đây (Đại học Helsinki), các trường còn lại thường chỉ đạt thứ hạng thấp hoặc không xuất hiện trong các bảng xếp hạng quốc tế.
Theo Zing
Bảng xếp hạng đại học có tiêu chí thu nhập từ chuyển giao tri thức
Bên cạnh những tiêu chí quen thuộc như giảng dạy, nghiên cứu, trích dẫn, vị thế quốc tế, Times Higher Education còn xếp hạng đại học dựa trên thu nhập từ chuyển giao tri thức.
Bên cạnh QS, bảng xếp hạng đại học của tạp chí Times Higher Education (THE) cũng là cái tên uy tín trong giới học thuật.
THE là tạp chí với hơn 50 kinh nghiệm phân tích, đánh giá giáo dục bậc cao. Do đó, bảng xếp hạng (BXH) do THE công bố được coi là công cụ đáng tin để chính phủ các nước, sinh viên xem xét các cơ sở giáo dục đại học.
Đánh giá dựa trên 13 chỉ số
BXH các đại học trên thế giới của THE là bảng xếp hạng toàn cầu duy nhất đánh giá các trường nghiên cứu chuyên sâu thông qua những nhiệm vụ chủ chốt của trường như giảng dạy, nghiên cứu, chuyển giao tri thức và vị thế quốc tế.
Times Higher Education là một trong những tổ chức uy tín nhất thế giới trong xếp hạng đại học. Ảnh:Utexas.
THE căn cứ 13 chỉ số để xếp hạng các trường nhằm đưa ra sự so sánh toàn diện và cân bằng nhất, tạo bảng xếp hạng đáng tin nhất đối với sinh viên, học giả, lãnh đạo các trường, người sử dụng lao động và chính phủ.
Những chỉ số này được chia thành 5 nhóm, bao gồm giảng dạy (môi trường học tập), nghiên cứu (số lượng, doanh thu và danh tiếng), số trích dẫn (mức độ ảnh hưởng của nghiên cứu), vị thế quốc tế (nhân viên, sinh viên, nghiên cứu), thu nhập từ chuyển giao kiến thức.
THE đánh giá các tiêu chí này dựa trên 4 nguyên tắc cơ bản.
Thứ nhất, tất cả dữ liệu, tính toán phục vụ cho BXH đều được thẩm định độc lập bởi công ty chuyên nghiệp PricewaterhouseCoopers (PwC).
Thứ hai, THE loại trừ trường ĐH khỏi BXH nếu trường không đào tạo hệ cử nhân hoặc kết quả nghiên cứu được công bố ở dưới 1.000 bài báo từ năm 2012 đến năm 2016 (số lượng tối thiểu 150 bài/năm).
Trường cũng bị loại nếu 80% chương trình đào tạo, nghiên cứu nằm ngoài danh sách 11 lĩnh vực do THE quy định.
Về thu thập dữ liệu, BXH sử dụng dữ liệu do trường cung cấp, trường phải ký cam kết về độ chính xác của dữ liệu. Nếu trường không cung cấp, THE sẽ dùng số liệu ước tính (tránh trường hợp chỉ số rơi vào mức 0).
Cuối cùng, THE quy điểm riêng lẻ thành các chỉ số, khớp dữ liệu theo phương pháp quy chuẩn hóa nhằm đưa ra tổng điểm cho từng cơ sở giáo dục.
Trọng số của từng tiêu chí
THE xếp hạng các trường đại học dựa trên 5 tiêu chí lớn.
Tiêu chí giảng dạy (môi trường học tập) có trọng số 30% và bao gồm chỉ số danh tiếng (15%), tỷ lệ giảng viên/sinh viên (4,5%), tỷ lệ tiến sĩ/cử nhân (2,25%), tỷ lệ tiến sĩ/số giảng viên (6%) và thu nhập (2,25%).
Cuộc khảo sát danh tiếng học thuật được tiến hành từ tháng một đến tháng 3/2017 với 10.568 đánh giá đồng thời kết hợp với hơn 20.000 phản hồi từ đợt khảo sát năm 2016.
Ngoài ra, tỷ lệ sinh viên sau đại học cũng là lát cắt cho thấy mức độ trường đào tạo thế hệ học giả kế tiếp cũng như khả năng cung cấp chương trình đào tạo cao hơn.
Nghiên cứu chiếm 30% trong kết quả đánh giá. Tiêu chí này gồm các chỉ số danh tiếng (18%), thu nhập từ nghiên cứu (6%) và năng suất nghiên cứu (6%). Tiêu chí này đánh giá danh tiếng của trường về nghiên cứu khoa học và được dựa trên kết quả từ Khảo sát Danh tiếng Học thuật do THE tổ chức hàng năm.
Thu nhập từ nghiên cứu được điều chỉnh dựa trên số giảng viên, nhà nghiên cứu của trường. Đây là chỉ số gây tranh cãi vì nó chịu ảnh hưởng từ chính sách quốc gia và tình hình kinh tế. Tuy nhiên, THE vẫn sử dụng vì cho rằng nó là yếu tố quan trọng.
Chỉ số này được chuẩn hóa dựa trên đặc thù các trường và thực tế việc trợ cấp cho nghiên cứu khoa học thường cao hơn cho nghiên cứu khoa học xã hội, nghệ thuật và nhân văn.
Để tính chỉ số năng suất nghiên cứu, THE dựa trên số lượng bài đăng trên Scopus rồi chuẩn hóa theo quy mô trường và lĩnh vực đào tạo. Trọng số của tiêu chí số trích dẫn là 30%. Chỉ số độ ảnh hưởng của nghiên cứu căn cứ vào vai trò của trường trong việc truyền bá kiến thức, tư tưởng.
Chỉ số này được xác định dựa trên số lần giới học giả trên toàn thế giới trích dẫn các nghiên cứu của trường.
Trong lần THE xếp hạng năm nay, nhà cung cấp dữ liệu Elsevier khảo sát khoảng 62 triệu trích dẫn từ hơn 12,5 triệu bài báo, báo cáo, báo cáo hội nghị, sách được công bố trong hơn 5 năm. Chỉ số này cũng được chuẩn hóa dựa trên lĩnh vực nghiên cứu nhằm hạn chế tình trạng bất công khi đánh giá các trường.
Tiêu chí vị thế quốc tế chiếm 7,5% trong đánh giá chung, bao gồm các chỉ số tỷ lệ sinh viên quốc tế/trong nước, tỷ lệ giảng viên quốc tế/trong nước và hợp tác quốc tế. Mỗi chỉ số chiếm 2,5%. THE cho rằng việc trường có thể thu hút sinh viên và giảng viên từ các nước khác cho thấy trường có vị thế quốc tế tốt.
Ở chỉ số hợp tác quốc tế, THE tính tỷ lệ số nghiên cứu khoa học của trường có sự tham gia của ít nhất một học giả nước ngoài và chuẩn hóa để có sự đánh giá chính xác nhất.
Tiêu chí cuối cùng, thu nhập từ chuyển giao tri thức, có trọng số 2,5%. Theo THE, một trong những nhiệm vụ then chốt của trường ĐH là đóng góp sáng kiến, phát minh và sự tư vấn vào sự phát triển chung.
Chỉ số này được xác định thông qua thu nhập của trường dựa trên việc chuyển giao tri thức cho doanh nghiệp và được chuẩn hóa theo số lượng học giả của trường. Nó cho thấy mức độ doanh nghiệp sẵn sàng chi trả cho các nghiên cứu cũng như khả năng cơ sở giáo dục thu hút vốn từ thị trường.
Theo Zing
Bộ GD&ĐT: Xếp hạng ĐH không thận trọng sẽ ảnh hưởng uy tín các trường Theo bà Nguyễn Thị Kim Phụng, xếp hạng đại học (ĐH) không thận trọng sẽ gây tác dụng ngược, có thể làm nhiễu thông tin Những ngày vừa qua, thông tin nhóm nghiên cứu độc lập đưa ra bảng xếp hạng 49 trường ĐH nhận được sự quan tâm của dư luận. Bảng xếp hạng ĐH Việt Nam lần đầu tiên được công...