Sửa đổi Luật Giáo dục đại học: Thảo luận về danh xưng hay về chất lượng thực tế
“Việc có trường đại học trong đại học không quan trọng bằng việc đánh giá xem sự kết nối giữa các trường thành viên của các đại học đó có hiệu quả hay không, có đem lại lợi ích cho người học hay không, có tạo ra sản phẩm tri thức phục vụ cho cộng đồng tốt hay không”.
TS Phạm Hiệp, nhà nghiên cứu giáo dục nêu quan điểm về mô hình hệ thống giáo đại học, đại học, trường đại học mà các chuyên gia giáo dục đang bàn thảo góp ý cho sửa đổi Luật Giáo dục đại học.
TS Phạm Hiệp
Phóng viên: Trong các thảo luận gần đây về dự thảo sửa đổi một số điều của Luật Giáo dục Đại học (GDĐH), có một số ý kiến khác nhau về mô hình hệ thống giáo đại học, đại học, trường đại học, là người nghiên cứu về GDĐH ông có nhận xét gì về việc này?
TS. Phạm Hiệp: Theo tôi hiểu, mục tiêu của lần sửa đổi này là để giải quyết những vướng mắc nhằm tạo khung pháp lý rộng nhất cho các cơ sở GDĐH phát huy hết tiềm năng của mình. Đây là cơ hội tốt để đưa ra một hành lang pháp lý mới cho cả hệ thống giáo dục đại học Việt Nam và qua đó giúp các cơ sở giáo dục đại học thực sự trở thành trung tâm của nền kinh tế xã hội và văn hóa của đất nước.
Trong các nội dung được sửa đổi, trọng tâm được đặt ra là làm sao tạo ra một cơ chế mới phát huy tốt hơn quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH – điều đã được giới chuyên môn chỉ ra là yếu tố bản lề giúp nâng cao chất lượng GDĐH.
Trong quá trình thảo luận, tôi cũng nhận thấy có những ý kiến về mô hình hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam. Bởi vì, chúng ta có các Đại học Quốc gia, các Đại học Vùng, Trường Đại học, Học viện. Có ý kiến cho rằng mô hình hệ thống GDĐH của chúng ta chưa được “mạch lạc”, cho nên cần có những thay đổi.
Tôi nghĩ chúng ta muốn đánh giá về hiệu quả của một mô hình, cần có những dữ liệu và bằng chứng về nó chứ không thể nói dựa trên quan sát cảm tính. Thí dụ: kết quả nghiên cứu khoa học thế nào, uy tín học thuật ra sao, sinh viên ra trường không có việc làm hay không, nhà tuyển dụng họ đánh giá thế nào… Nếu mô hình cơ sở GDĐH nào không đáp ứng những chỉ số này thì đúng là cần thay đổi một cách căn bản về mô hình với những cơ sở giáo dục đại học như vậy.
Còn những thực thể đại học đã định hình, đã khẳng định được thương hiệu và vị trí thì không nên thay đổi quá nhiều gây rối loạn hệ thống chung và bên trong các cơ sở này. Thí dụ, gần đây chúng ta đều biết, trong bảng xếp hạng đại học quốc tế của tổ chức QS lần đầu tiên có tên hai ĐHQG của Việt Nam trong top 1000 đại học tốt nhất của thế giới. Theo QS Châu Á, 3/5 cơ sở đại học nằm ở Top 150 cũng là các ĐHQG và ĐH vùng.
Các ĐHQG và ĐH vùng cũng là các đơn vị năng động trong việc đón đầu các xu thế mới trong GDĐH như kiểm định chất lượng, đổi mới thi tuyển sinh, bằng kép, đào tạo liên ngành, gắn kết đào tạo với NCKH, NCKH theo chuẩn mực quốc tế ….
Điều này có được một phần nhờ việc các ĐH này có quyền tự chủ cao, lợi thế liên ngành, khả năng khai thác các nguồn lực chung.
Tất nhiên, ĐHQG và ĐH vùng cũng có những vấn đề nội tại, đôi khi xuất phát từ do sự thiếu nhất quán và không đồng bộ về chủ trương, quan điểm và khung pháp lý. Ví dụ, có vẻ như Thông tư 08 về các Đại học Vùng lại tạo ra khoảng cách cho các trường đại học thành viên thay vì thúc đẩy họ hỗ trợ gần nhau như nỗ lực và mục tiêu ban đầu.
Theo tôi, để điều chính việc này cần tăng cường hỗ trợ, xóa bỏ các rào cản chính sách hơn là tạo ra sự phân tâm bằng những chính sách quá mới mà chưa được nghiên cứu, phân tích tác động một cách thấu đáo.
Nhóm nghiên cứu của GS.TSKH Lưu Văn Bôi (Khoa Hóa học – Trường ĐH Khoa học Tự nhiên – ĐHQGHN) với sản phẩm nghiên cứu là diesel sinh học (ảnh: Bùi Tuấn)
Phóng viên: Nhưng cũng có ý kiến cho rằng mô hình trường đại học trong đại học (University trong University) là không giống ai? Ông có nhận xét gì về điều này?
TS. Phạm Hiệp: Cơ cấu một cơ sở giáo dục đại học trên thế giới rất đa dạng, chứ không có khuôn mẫu chung. Một số nơi đơn vị trực thuộc trong cơ cấu trường đại học (university) là college (hay được dịch là Trường), faculty (hay được dich là Khoa), school (hay được dịch là Trường), department (Khoa hoặc Bộ môn), institute (Viện).
Nhưng, với sự hiểu biết của tôi, có thể nói không hề có một công thức chung nào cho cơ cấu nội bộ của một trường đại học. Có nơi áp dụng mô hình university – college – department; có nơi lại áp dụng mô hình university – school – faculty – department và hầu như rất ít nơi, người ta quy định cứng nhắc đơn vị con thuộc university là phải như thế nào như quy định hiện hành ở Việt Nam.
Video đang HOT
Trường nơi tôi học tiến sĩ ở Đài Loan thì cấp institute lại là cấp thấp nhất, thấp hơn college và dưới university. Mặc dù rõ ràng khi dịch ra tiếng Việt, institute là Viện làm chúng ta tưởng là rất to.
Bên cạnh đó, cũng có khá nhiều nơi áp dụng mô hình giống mô hình ĐHQG hay ĐH vùng như ở Việt Nam, tức là university trong university. Ví dụ, ĐHQG Ireland, ĐH Phillipines là những đại học có các trường đại học thành viên, các university nằm trong university.
Từ những năm 1970, Mỹ cũng có mô hình ĐH California cũng là trường đại học trong đại học, sau đó được nhiều Bang khác học tập. Hay gần đây nhất, ở Pháp có một loạt các trường sáp nhập với nhau, như ĐH Paris 11, đã nhập với các trường khác tạo thành một ĐH mới là University of Paris-Saclay – ĐH bao trùm lên các trường thành viên. Các university mẹ kể trên đều là các thực thể, được điều hành bởi một bộ máy vận hành chung, có thực quyền.
Xu hướng sáp nhập này diễn ra là do sự cạnh tranh trong giới học thuật đỉnh cao ngày càng khốc liệt. Do vậy, “những con sói cô đơn” nhìn chung không hiệu quả trong sự cạnh tranh này, mà cần có sức mạnh tổng hợp với nguồn lực dồi dào.
Chính vì vậy, các cơ sở giáo dục đại học, hoặc là tự phát (khối tư nhân) hoặc được hoạch định (vai trò của nhà nước) đến với nhau, sáp nhập trong một thực thể mới để tạo thành sức mạnh tổng hợp chung, để kết nối nguồn lực của các trường thành viên. Cần lưu ý, các hệ thống mới này không đi theo hướng “hòa tan” các trường đại học thành viên, mà khai thác các nguồn lực chung, thương hiệu chung, có sự gắn kết hữu cơ, nhưng vẫn giữ một sự độc lập, tự chủ nhất định của các trường thành viên với nhau và với hệ thống chung.
Cho nên tôi nghĩ rằng việc có trường đại học trong đại học không quan trọng bằng việc đánh giá xem sự kết nối giữa các trường thành viên của các đại học đó có hiệu quả hay không, có đem lại lợi ích cho người học hay không, có tạo ra sản phẩm tri thức phục vụ cho cộng đồng tốt hay không.
Nếu chúng ta nhìn rộng ra trong toàn nền kinh tế xã hội thì tôi thấy các lĩnh vực khác họ không quan trọng lắm câu chuyện này. Thí dụ, phía doanh nghiệp, mô hình rất đa dạng. Hình thức công ty trong công ty không phải là hiếm và là thực tiễn bình thường. Quan trong chất lượng hoạt động ra sao.
Việc chỉ cho rằng university là đại học tổng hợp hay ngược lại cũng không hoàn toàn chính xác. Nếu điều này là đúng, thì chắc các cơ sở giáo dục như Massachusset Institute of Technology (Mỹ), Boston College (Mỹ) London School of Economics (Anh) sẽ không phải là đại học tổng hợp chăng, khi họ có cơ cấu đào tạo giống như các trường đại học đa ngành khác, nhưng trong tên cũng chẳng có thuật ngữ university. Hoặc, khi đó phải chăng lại gọi Havard University là Trường Đại học Tổng hợp Havard, thay cho cách gọi đã định hình là Đại học Havard?
Tôi nghĩ không nên mất quá nhiều thời gian về việc này, mà nên bàn nhiều về các giải pháp thúc đẩy chất lượng. Tôi không tin là thay đổi cái tên thì chất lượng các cơ sở giáo dục đại học và hệ thống giáo dục đại học sẽ khởi sắc. Dự thảo sửa đổi một số điều Luật GDĐH còn rất nhiều nội dung chúng ta cần phải ưu tiên, quan tâm và xử lý một cách thấu đáo mà dường như chúng ta chưa dành đủ thời gian để thảo luận.
Phóng viên: Vậy theo ông, điều gì là cần ưu tiên xử lý trong lần sửa Luật GDĐH lần này?
TS. Phạm Hiệp: Rất nhiều, có những vấn đề của lịch sử để lại, bên cạnh những vấn đề mà bối cảnh mới buộc chúng ta phải thay đổi. Ví dụ như chúng ta đều biết là Việt Nam theo mô hình Xô Viết trước đây, tách biệt giữa trường đại học và viện nghiên cứu, trường đại học thuần là giảng dạy còn viện nghiên cứu thuần nghiên cứu.
Các nhà hoạch định chính sách đã nhìn nhận ra vấn đề này và đã cố gắng xóa nhòa khoảng cách giữa trường đại học và viện nghiên cứu bằng nhiều cách. Ví dụ như trong Luật Giáo dục Đại học 2012, đã công nhận viện nghiên cứu đào tạo tiến sĩ là cơ sở giáo dục đại học.
Ngược lại, trong Luật Khoa học Công nghệ cũng coi các cơ sở giáo dục đại học là tổ chức khoa học công nghệ. Nhưng mà những biện pháp đưa ra dường như vẫn chưa đạt được những hiệu quả thực sự đáng kể. Khoảng cách giữa viện nghiên cứu và đào tạo vẫn còn quá xa, trong khi thực tiễn thế giới cho thấy rằng là 2 nội dung này cần phải kết nối với nhau và hòa quện với nhau thì mới tạo ra được vừa chất lượng nghiên cứu tốt, vừa vấn đề đào tạo tốt.
Cũng là vấn đề nghiên cứu, rất nhiều nhà khoa học đã kêu về sự tách biệt giữa nguồn chi đầu tư cho phòng thí nghiệm, cơ sở vật chất với nguồn để làm đề tài nghiên cứu, dẫn đến có những nhóm có phòng thí nghiệm, có cơ sở vật chất thì lại không có tiền để làm đề tài nghiên cứu và ngược lại, có tiền làm đề tài nghiên cứu thì lại không có cơ sở vật chất.
Bởi vì cơ chế cấp ngân sách cho việc này là đi theo 2 kênh khác nhau, kênh cơ sở vật chất và phòng thí nghiệm thì theo kênh của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; kênh của nghiên cứu khoa học theo kênh của Bộ Khoa học Công nghệ. Thì những việc làm sao để xóa nhòa, giải quyết vấn đề này vẫn chưa được thảo luận một cách thấu đáo.
Một vấn đề nữa, chúng ta được biết là kiểm định chất lượng hay là minh bạch thông tin là những công cụ rất quan trọng hệ thống giáo dục đại học thì dường như chưa có nhiều thảo luận thấu đáo.
Hay là vấn đề e-learning, theo tôi nên dành nhiều thời gian xem xét vai trò của hệ đào tạo này và làm sao để phát triển được e-learning đáp ứng nhu cầu đào tạo từ xa, nhu cầu đào tạo lại, học tập suốt đời, thì dường như chúng ta bỏ quên.
Có lẽ chúng ta nên tập trung vào những nội dung đó, những vấn đề bản chất hơn là những thảo luận rất không cần thiết về cách gọi tên trường đại học như thế nào.
Xin trân trọng cám ơn TS!
Phan Đăng ( thực hiện)
Theo Dân trí
Sửa đổi Luật Giáo dục Đại học: Xóa bỏ quyền lực "hờ" của Hội đồng trường
Việc sửa đổi Luật Giáo dục Đại học 2012 là nhằm khắc phục hạn chế, bất cập về pháp luật với giáo dục đại học thời gian qua, hoàn thiện khung pháp lý về giáo dục đại học. Đặc biệt, sẽ xóa quy định quyền lực "hờ" của Hội đồng trường.
Theo Bộ GD&ĐT, Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học đề xuất sửa đổi 39 điều, bổ sung 2 điều tập trung vào 4 nhóm vấn đề lớn.
Đó là: Mở rộng phạm vi và nâng cao hiệu quả tự chủ đại học; đổi mới quản trị đại học; đổi mới quản lý đại học; đổi mới quản lý nhà nước trong điều kiện thực hiện tự chủ đại học. Đối với mỗi nhóm vấn đề đều có các phương án, giải pháp thực hiện; những tác động tích cực, tiêu cực từ mỗi phương án đều cũng đã được tính toán kỹ lưỡng.
Sửa đổi Luật Giáo dục để nâng chất lượng tiệm cận với quốc tế
Xóa bỏ "nhiệm kỳ của hội đồng trường theo nhiệm kỳ của hiệu trưởng"
Luật Giáo dục Đại học năm 2012 đã xây dựng khung pháp lý khá hoàn chỉnh cho bộ máy quản trị cơ sở giáo dục đại học, có sự phân biệt quản trị cơ sở đại học công lập, tư thục và có vốn đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, trên thực tế, Hội đồng trường/hội đồng đại học ở trường công lập, dù được coi là cơ quan quyền lực nhưng lại không có quyền lực thực sự. Hội đồng trường không có quyền bầu và miễn nhiệm hiệu trưởng hoặc giám đốc đại học (gọi chung là hiệu trưởng) nên chỉ chịu trách nhiệm trước cơ quan chủ quản cấp trên. Điều này dẫn đến hội đồng trường đóng vai trò tư vấn hơn là một hội đồng quyền lực.
Luật hiện hàng cũng chưa làm rõ chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của hội đồng trường. Việc triển khai quy định về hội đồng trường trong thực tế chưa phân định rõ được chức năng, quyền hạn của hội đồng trường với Ban giám hiệu.
Điều này làm cho hội đồng trường không có thực quyền và nhiều cơ sở giáo dục đại học công lập không thành lập hội đồng trường cũng không bị chế tài gì, làm mất tính nghiêm minh của Luật pháp. Quy định "nhiệm kỳ của hội đồng trường ...theo nhiệm kỳ của hiệu trưởng" ngầm định rằng hiệu trưởng có quyền hạn cao hơn hội đồng trường là không phù hợp...
Đo dó, Dự thảo Luật sửa đổi hướng tới việc tạo ra đổi mới thực sự trong nhận thức, tư duy quản lý và phương thức quản trị giáo dục đại học; khắc phục những điểm bất cập. Đổi mới cơ chế quản trị, quản lý trong các cơ sở giáo dục đại học nhằm giúp các cơ sở giáo dục đào tạo thích ứng với những yêu cầu, đòi hỏi về nguồn nhân lực có chất lượng trong bối cảnh mới, hội nhập quốc tế để nâng cao chất lượng đào tạo...
Cụ thể, Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung 7 điều nhằm đổi mới công tác quản trị đại học theo hướng quy định rõ cơ chế quản trị trong trường đại học công lập tự chủ, trường đại học tư thục và trường đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận.
Đối với các trường đại học công lập tự chủ, sửa đổi, bổ sung các quy định để Hội đồng trường là hội đồng quyền lực, thực hiện chức năng quản trị trong trường đại học tự chủ. Thành phần của Hội đồng trường cơ bản độc lập với bộ máy quản lý của hiệu trưởng, có các quyền của tổ chức quản trị trường, quyết định định hướng phát triển trường, ban hành quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế tài chính... Hiệu trưởng thực hiện chức năng quản lý, điều hành hoạt động của trường theo quy định của pháp luật và theo quyết nghị của hội đồng trường.
Đối với các trường tư thục, bổ sung quy định về bộ máy quản lý theo tiêu chí chủ sở hữu; bổ sung quy định về đại hội đồng cổ đông và ban kiểm soát để áp dụng những thiết chế quản trị đại học hiện đại, vận dụng cơ chế quản trị doanh nghiệp. Các trường đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận, quy định cơ chế quản trị gần giống trường công lập tự chủ để tương đồng về cơ chế hoạt động và phân biệt rõ với cơ chế quản trị của trường đại học tư thục khác.
Xóa bỏ hình thức dạy chay, mở rộng công nhận văn bằng
Trên cơ sở quy định của Luật Giáo dục Đại học 2012, việc triển khai các hoạt động đào tạo còn nhiều bất cập. Trong đó, chương trình đào tạo đại học còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, thiếu kỹ năng, xa rời thực tiễn khiến sinh viên không hứng thú học tập, ra trường khó tìm kiếm việc làm.
Chương trình đào tạo chưa tạo được sự liên thông giữa các chuẩn mực đào tạo trong nước và quốc tế, gây khó khăn khi liên thông với các chương trình đào tạo ở nước ngoài hoặc công nhận văn bằng của Việt Nam ở các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
Thêm và đó, việc đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhiều trường đại học chỉ mang tính hình thức. Trên thực tiễn, sĩ số lớp đông nên việc thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục đại học khó khả thi.
Các trường xây dựng và công bố chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo nhưng vẫn mang tính hình thức, chưa chú trọng chuẩn ngoại ngữ ngang với yêu cầu của các trường đại học trong khu vực; chưa có sự gắn kết chặt chẽ với đơn vị sử dụng lao động; chưa thực hiện sàng lọc mạnh để đảm bảo chất lượng đào tạo...
Do đó, việc thực hiện sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục Đại học sẽ gồm 6 điều (33,34,35,36,37,38) nhằm thực hiện đổi mới để đảm bảo chất lượng, hiệu quả và tiệm cận với chuẩn quốc tế như chuẩn hóa hình thức đào tạo theo đúng thông lệ quốc tế, góp phần thúc đẩy việc hợp tác về giáo dục và công nhận trình độ người lao động trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng; thiết lập lại trật tự trong xác định chỉ tiêu tuyển sinh.
Mặt khác, những thay đổi này sẽ góp phần hiệu quả tháo gỡ những vướng mắc trong thực tế trong liên kết đào tạo, đặt ra các điều kiện để đảm bảo chất lượng đào tạo khi tự chủ liên kết đào tạo, thành lập cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài.
Giảm dần sự can thiệp của Nhà nước
Dự thảo Luật sửa đổi bổ sung 18 điều nhằm đổi mới công tác quản lý nhà nước trong điều kiện thực hiện tự chủ đại học - nhiều nhất trong các nhóm vấn đề cần sửa đổi, bổ sung lần này.
Đó là các điều: 4, 7, 8, 9, 11, 12, 14, 15, 39, 40, 42, 44, 48, 52, 68, 70, 72 nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học trong điều kiện tự chủ đại học, đảm bảo chất lượng và quản lý có hiệu quả giáo dục đại học, phù hợp với yêu cầu thực tế quản lý giáo dục đại học theo hướng giảm dần sự can thiệp trực tiếp của cơ quan quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học.
Nhà nước sẽ quản lý ở tầm vĩ mô để điều tiết trong toàn hệ thống; các cơ sở giáo dục đại học tự chủ hoạt động theo các điều kiện, tiêu chuẩn chất lượng do pháp luật quy định.
Các quy định được sửa đổi, bổ sung tập trung vào quản lý hệ thống. Trong đó, sẽ có những điều giúp phân biệt các loại cơ sở trong hệ thống giáo dục đại học gồm: đại học quốc gia, đại học, trường đại học hoặc học viện với các tiêu chí đặc trưng rõ ràng.
Việc quy định phân loại, xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học theo thông lệ quốc tế và phù hợp với điều kiện của Việt nam; quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học theo Luật Quy hoạch và Nghị quyết số 19-NQ/TW...
Bên cạnh đó Luật cũng quy định rõ các tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng đào tạo và cấp văn bằng, kiểm định chất lượng... để các trường tự chủ thực hiện, yêu cầu minh bạch thông tin, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong giáo dục đại học .
Về kiểm định chất lượng, các quy định được hoàn thiện để tổ chức kiểm định chất lượng phải là tổ chức độc lập với các cơ sở giáo dục đại học; bổ sung quy định về tiêu chuẩn và quy trình đánh giá tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nhằm đảm bảo tính thống nhất, xác định rõ về năng lực để đảm bảo đồng đều kết quả đánh giá, kiểm định giữa các trung tâm kiểm định chất lượng.
Trong phần này cũng có những điều sửa đổi để chuyển học phí của cơ sở giáo dục đại học sang quy định về định giá dịch vụ đào tạo, phù hợp với Luật giá, Luật phí và lệ phí...
*Đồng bộ cơ chế tự chủ
Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung 13 điều liên quan đến tự chủ đại học (gồm các điều 32, 33, 39, 40, 41, 43, 45, 64, 65, 66, 67, khoản 5 Điều 12, khoản 2 Điều 36. Trong đó, Điều 32 về quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học, quy định gắn với trách nhiệm giải trình và sửa đổi, bổ sung các nội dung liên quan tới tự chủ đại học ở 8 điều khác nhằm đổi mới quản lý nhà nước. Điều này sẽ giúp cơ sở giáo dục đại học phát huy nội lực trong thực hiện tự chủ, linh hoạt, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội, cạnh tranh lành mạnh để nâng cao chất lượng, hội nhập quốc tế.
Cụ thể là, về tự chủ trong hoạt động chuyên môn, các cơ sở giáo dục đại học được tự chủ mở ngành, tự chủ liên kết đào tạo ở trong và ngoài nước; tự chủ trong việc thiết kế mẫu, in phôi, cấp phát văn bằng cho người học; đẩy mạnh hợp tác quốc tế và hoạt động khoa học và công nghệ; thúc đẩy khởi nghiệp, gắn với đổi mới sáng tạo, ứng dụng và chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học.
Tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự được tập trung ở nội dung sửa đổi quy định về hội đồng trường để có thực quyền trong việc quyết định về tổ chức bộ máy; quyết định nhân sự, tiêu chuẩn hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tiêu chuẩn giảng viên theo quy định của pháp luật. Hiệu trưởng trường đại học công lập do cơ quan quản lý có thẩm quyền công nhận trên cơ sở đề xuất của Hội đồng trường; Hiệu trưởng trường đại học tư thục do hội đồng quản trị quyết định.
Tự chủ tài chính, tài sản thể hiện ở quy định về cơ sở giáo dục đại học có quyền chủ động xây dựng và quyết định mức giá dịch vụ đào tạo theo quy định của Chính phủ, đảm bảo tương xứng với chất lượng đào tạo. Cơ sở giáo dục đại học được quyết định các dự án đầu tư sử dụng nguồn thu hợp pháp ngoài ngân sách của cơ sở giáo dục đại học; quyết định nội dung và mức chi từ các nguồn thu hợp pháp...
Các quy định được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định về quyền tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học.
Nhật Hồng
Theo Dân trí
Đại học đa lĩnh vực: "Quả đấm thép" của giáo dục đại học Việt Nam Để các đại học đa lĩnh vực thực sự trở thành những "quả đấm thép" của giáo dục đại học Việt Nam, nhằm đón nhận những sứ mệnh cao hơn trước đà phát triển của đất nước, về mặt thể chế Nhà nước cần tạo điều kiện rất thuận lợi để chúng phát huy được tối đa sức mạnh tổng hợp của mình....