Sư tử về già, quan chức về hưu
Quyền lực ghê lắm. Nó là một thứ ma túy khủng khiếp. Nó vô hình nhưng làm tha hóa con người rất nhanh.
Không biết có phải “đất lành chim đậu” hay không mà khu tôi ở rất nhiều người nổi tiếng. Văn nghệ sĩ có, nhà khoa học có, thương gia nhiều, và đặc biệt là lắm quan chức. Nhiều ông làm to lắm, sơ sơ đã có đến mấy ông bộ trưởng, vụ trưởng, cục trưởng, giám đốc các sở,… nhưng phần lớn lại đã về hưu.
Thỉnh thoảng tôi đi dạo vào buổi sáng hay buổi chiều quanh các vườn hoa, công viên, sân tập thể dục,… thường vẫn gặp họ. Người thì biết tên, kẻ chỉ biết mặt, trông rất quen mà không nhớ nổi tên. Phần lớn họ ăn mặc rất giản dị, nhiều ông còn luộm thuộm, thậm chí nhếch nhác là đằng khác. Nhưng có điểm chung trông ông nào cũng rất hiền lành, ít nói và lúc nào cũng có vẻ trầm tư như đang nung nấu, nghĩ ngợi một điều gì đó rất ghê…
Có hôm, tình cờ tôi ngồi uống trà ở một quán bán rong trong công viên cạnh một đôi bạn già. Nói là già nhưng cũng mới về hưu cả thôi. Một ông béo tốt đẫy đà, tươi tắn, còn ông kia trông héo hắt, khô gầy, khắc khổ. Ông béo oang oang như súng liên thanh, còn ông gầy nhỏ nhẹ, nhát gừng, nhiều lúc tôi không nghe được ông nói gì. Tôi ngồi uống nước và lặng lẽ quan sát. Ông gầy hỏi:
Hôm nay cậu không ra cơ quan nữa à?
Thôi, thôi từ hôm qua rồi. 3 tháng rồi còn gì nữa ông. Tôi đã nhận sổ hưu hơn 3 tháng và trong thời gian ấy, mặc dù đã có người thay, tôi vẫn không sao quen được. Sáng nào cũng vậy, đúng giờ ấy, tôi vẫn đến chỗ chiếc bàn tôi ngồi hơn hai chục năm nay, xin phép người mới thay mình ngồi vào đó một lúc cho nó đỡ nhớ ông ạ. Ngồi khoảng 30 – 40 phút rồi tôi mới rời bàn đi về nhà coi như một ngày làm việc đã qua.
Ông béo nói một thôi một thồi, nhưng khác cái là giọng ông lúc này như trầm xuống, nhất là khi nói tới cái bàn mà ông đã gắn bó hai chục năm nay.
Khi nghe ông béo nói, tôi để ý thấy ông gầy mặt buồn rười rượi, ủ ê, mắt đăm đăm nhìn về một phía… hình như ông cũng đang nhớ lại một thời. Đúng lúc cả hai ông đứng dậy, ông gầy chỉ nói: “Cậu mà cũng buồn bực thế à?”, rồi hai ông đi bộ tiếp con đường mà họ vẫn thường đi.
Tôi cũng vừa định đứng dậy, thì bà bán nước lẩm bẩm: “Rõ khổ ! Khi đang còn làm to không biết có nghĩ đến lúc này không?”.
Video đang HOT
Tôi lân la hỏi mới biết ông béo vốn chỉ là một người biên tập, sửa morat cho một nhà xuất bản. Nhưng ông gầy thì làm chức gì to lắm. Bà ở gần nhà ông này nên biết rất nhiều chuyện. Bà kể khi còn đương chức, vào những dịp lễ tết, người ra kẻ vào nhà ông tấp nập; chen chúc như đi hội, đi chùa; xe ô tô xếp hàng dài. Nhiều người chỉ vào bên trong được ba bốn phút, thế là lại phải ra ngay để người khác, đoàn khác còn vào. Vợ ông ấy tiếp khách nhiều quá, có hôm tụt cả huyết áp.
Chẳng biết ông ấy có nhớ hết mọi người đến không nữa – bà bán nước tiếp – nhưng thấy ai ra khỏi nhà ông ấy cũng mặt mày phấn khởi, rạng rỡ lắm, cứ như vừa xong một việc lớn…
Rồi cũng theo lời bà, những ngày sau khi ông về hưu, tết nhất không một bóng người. Cửa khóa im ỉm. Sân nhà đầy lá. Lớp lớp không thấy ai quét. Ông ra vào lặng lẽ như một cái bóng. Ban đầu ông ít ra khỏi nhà, gần đây có “ông béo biên tập” rủ nên thường đi dạo hơn…
Tôi ngồi lặng trong bóng buổi chiều buồn. Xung quanh lá vàng rơi lộp bộp mỗi khi có cơn gió nổi lên. Vòm cây xạc xào như chia sẻ nỗi vơi đầy, vui buồn, sướng khổ của cuộc đời này. Tôi bỗng thấm hiểu những gì đang diễn ra trong tâm hồn 2 ông bạn già đã nghỉ hưu, nhất là với ông gầy.
Cứ thử tưởng tượng, khi ông còn đương chức; từ mờ sáng đến tận đêm khuya, lúc nào cũng có kẻ chực người chờ, đón rước linh đình. Một bước là xe, hai bước là máy bay. Mở mắt ra đã thấy nỉ non toàn những tiếng thưa lời bẩm, tiếng dạ lời vâng…ăn thì toàn cao lương mĩ vị, uống thì sâm nhung đủ thứ trên đời…
Giờ thì hình như có gì khác lắm. Chắc không phải do ông thiếu tiền, thiếu miếng ăn, thức uống. Già rồi ăn uống đáng là bao. Nhà cửa không phải lo, đi lại không thành vấn đề. Thế sao mặt ông lúc nào cũng ủ ê, buồn bã? Tôi nghĩ, chắc chắn ông buồn vì thấy mình không còn quyền lực, mất hết quyền lực; “Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu!”; nói bây giờ không ai nghe, quát cũng chẳng ai sợ… Suốt ngày chẳng thấy ai đến xin ý kiến hay kí cót gì… Nghĩa là thấy mình cứ như người thừa, tồn tại một cách vô nghĩa, vô duyên. Ông bị bệnh say đắm quyền lực. Một thứ bệnh rất dễ mắc phải và khó chữa lắm. Nhất là ở xứ ta.
Cứ nghĩ mà xem, như cái ông béo kia làm biên tập viên thì có gì to tát, thế mà khi “mất việc”, 3 tháng trời vẫn chưa quen, vẫn nhớ da diết cái công việc mà nhiều người cho là “khổ sai” ấy. Thế mới hiểu nỗi đau của những ông to như cái ông gầy này đến mức nào? Hèn gì có ông lớn khi đã về hưu, đến sinh hoạt tổ dân phố, vừa bước vào phòng đã giơ cao tay hua hua chào; người ta mời phát biểu, vừa đứng lên ông đã tự vỗ tay,… trong khi chẳng ai vỗ tay cả. Chắc ông phải thấy rất ngượng ngùng vì những thói quen quyền lực đã hằn sâu trong nếp sống.
Rất nhiều ông to khác, về hưu rồi, lúc gặp gỡ, khi bắt tay vẫn cứ theo thói quen xưa: giơ bàn tay buông thõng cho người khác sờ vào. Mỗi khi gặp những bàn tay béo tròn, mũm mĩm mà lạnh lùng, nhạt nhẽo, vô cảm ấy tôi không khỏi rùng mình. Rồi sau đó cứ thấy buồn cười, buồn bực, buồn nôn cho cái kiểu bắt tay ấy. Cũng là hệ quả của bệnh quyền lực đấy.
Tôi có quen thân với vợ chồng một anh bạn, có thời gian đi học cùng nhau… cùng đói khổ, cơ hàn… Thương lắm! Sau hơn chục năm phấn đấu, đùng một cái anh ấy được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng một trường đại học lớn. Nghĩ mà mừng cho bạn. Bèn hăm hở đến thăm và chúc mừng. Gọi điện đến nhà, mấy lần, lần nào người giúp việc cũng trả lời: “Thầy ấy đi vắng!”. Đến hôm gặp cả vợ chồng tại một tiệc nhậu, vợ cậu ấy cứ như không quen biết gì mình. Lạ quá! Hình như khi chồng đã làm to thì bà vợ phải thay đổi sao cho tương xứng với chức của chồng, để tạo thế oai phong, và trên hết để tỏ ra có quyền lực thì phải.
Quyền lực ghê lắm. Nó là một thứ ma túy khủng khiếp. Nó vô hình nhưng làm tha hóa con người rất nhanh. Tôi biết rõ hai người bạn chơi với nhau rất thân, bình thường vẫn cậu cậu, tớ tớ. Rồi một ngày đẹp trời, ông bạn kia ngồi vào ghế Thứ trưởng. Tình thế thay đổi hẳn. Ngay hôm sau, tôi đã thấy anh này rối rít “em em- anh anh” rất nhún nhường, lễ phép với ông Thứ trưởng mà mới hôm qua còn cậu cậu, tớ tớ. Mà có phải ở cuộc họp hay mít tinh, lễ lạt gì đâu. Khi chỉ còn lại hai người, tôi hỏi cậu ấy: “Sao mày thay đổi nhanh thế? Hay thằng kia bắt mày xưng hô thế? Cậu ấy rất thành thực: “không thay đổi sao được! Từ khi ông ấy được bổ nhiệm tao thấy mình nhỏ bé quá nên phải thay đổi chứ sao”.
Hóa ra trong nhiều trường hợp sự tha hóa lại không bắt đầu từ người có quyền lực. Mà là từ tâm lí hèn đớn, tự ti của những người xung quanh họ. Chính tâm lí ấy khơi dậy ngọn lửa đam mê quyền lực của người cầm quyền và dần dần làm hỏng họ. Quyền lực đã làm cho rất nhiều người phải tự nhiên quỳ xuống và thấy mình thấp bé đi, trong khi chính họ nếu đứng dậy thì chẳng có gì thấp hơn kẻ nắm quyền lực cả! Thế mới thấm thía lời kêu gọi của Marat [1] : “Người ta lớn bởi vì ta quỳ xống/ Hỡi nhân dân hãy đứng thẳng lên”.
Tuy nhiên trong lịch sử, thực tiễn cuộc sống cũng đã chứng minh có rất nhiều bậc tài trí hơn người, những đấng minh quân, những tướng lĩnh giỏi, những tổng thống tài ba… bản thân họ là sự hiện thân của quyền lực, biểu tượng của quyền lực một cách tự nhiên, chân chính. Có cúi đầu trước họ, ta cũng chẳng xấu hổ là mấy…
Cho dù thế, đã là con người không ai có thể chống lại được tuổi già. Sẽ có một ngày ai cũng thế thôi, ai rồi cũng rơi vào bi kịch của sự bất lực cả thể chất lẫn tinh thần. Răng sẽ rụng dần, tai không còn thính, tóc bạc hơn lên, và chân chậm, mắt mờ… Sự bất lực về thể chất ai rồi cũng như nhau. Nhưng nỗi đau tinh thần sẽ là rất khác ở những người có vị trí khác nhau khi họ đã về già.
*
Có lẽ vì thế, tôi thường vẫn nghĩ, Sư tử về già buồn bã hơn nhiều các loài khác như cầy, cáo chẳng hạn. Cầy, cáo vốn bị khinh bỉ và bị coi thường từ nhỏ, nên đến lúc già có bị khinh bỉ tiếp cũng chẳng có gì lạ cả và do vậy chẳng có gì xấu hổ, nhục nhã hơn. Nhưng Sư Tử đã từng hiểu, từng nếm trải thế nào là sang trọng, thế nào là đớn hèn, thế nào là uy vũ, thế nào là vinh quang… thì khi đã về già “mắt mờ, chân chậm” mới thấm thía nỗi đau đớn ê chề trong tâm hồn mà các loài khác không thể nào hiểu được. Nhất là loài cầy, cáo.
Đỗ Ngọc Thống (theo VHNA online)
* Tiêu đề bài viết do Tuần Việt Nam đặt lại
—–
[1] Ma-rat (1743 – 1793) – một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của Cách mạng tư sản Pháp.
Theo_VietNamNet
Nhà tình báo và cuộc chiến chống ma túy
Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy (phải) tại Trung tâm cai nghiện Thanh Đa. Ảnh: CHÍ TÙNG
Đất nước thống nhất gần 40 năm, thành quả ấy được kết tinh từ sự hy sinh xương máu của hàng triệu người con nước Việt, trong đó có sự đóng góp, cống hiến của không ít nhà tình báo.
Bên cạnh những tên tuổi lẫy lừng như Trần Quốc Hương, Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn, Phạm Ngọc Thảo, Đặng Trần Đức,... còn có sự đóng góp không nhỏ của cụm điệp báo A10 thuộc Cơ quan an ninh T4 và vô vàn các nhà tình báo còn ẩn danh khác. Tôi đã đi tìm một nhà tình báo - bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy, nguyên Cụm phó Cụm điệp báo A10 - người được chỉ huy mạng lưới tình báo miền Nam Trần Quốc Hương trực tiếp quản lý để xem cuộc đời ông hiện ra sao. Và cuộc tìm kiếm đã đưa tôi đến... trại cai nghiện - nơi ông đang ngày đêm cứu những con người sa ngã, bất hạnh.
Sau chiến tranh, rất nhiều tài liệu cả trong nước và nước ngoài đã viết về Cơ quan an ninh T4 và Cụm điệp báo A10, nhưng tất cả đều có nhận xét: Dường như không có một tổ chức tình báo nào trên thế giới hoạt động đặc biệt như cụm điệp báo A10, bởi họ không được hướng dẫn, trang bị bất kỳ một thứ máy móc thiết bị gì mà họ chỉ là những học sinh, sinh viên yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm. Họ chỉ nhận định hướng chung từ thủ trưởng trực tiếp rồi tự quyết định hành động sao cho đạt hiệu quả cao nhất và không để bị lộ, bị bắt.
Quá khứ hào hùng...
Với cuộc đời của Nguyễn Hữu Khánh Duy có thể tóm tắt như sau: Sinh năm 1947 tại Nghệ An, năm 1966, ông thi đỗ Đại học Y Sài Gòn và bắt đầu hoạt động trong phong trào sinh viên. Năm 1968, tham gia phong trào cách mạng, bằng việc giúp đỡ những chiến sĩ cách mạng tại các bệnh viện sau cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Năm 1971, ông được đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương) - chỉ huy mạng lưới an ninh T4 - bố trí về công tác tại Ban An ninh vũ trang Sài Gòn, Gia Định với bí danh Năm Quang. Sau đó, Ban An ninh T4 thành lập cụm tình báo A10 với nhiệm vụ xây dựng lực lượng điệp báo bí mật, để làm công tác phản gián, thu thập tin tức liên quan đến ý đồ của địch, nhằm kịp thời tham mưu cho các cấp chỉ đạo để tấn công địch.
Để tạo vỏ bọc hoạt động, Nguyễn Hữu Khánh Duy đã được đồng chí Mười Hương chỉ đạo gia nhập đội ngũ ngụy quân và ông đã từng đeo hàm đại úy, bác sĩ trưởng quân y của Lữ đoàn 258 lính thủy đánh bộ ngụy quân Sài Gòn. Trong quá trình hoạt động, Nguyễn Hữu Khánh Duy đã xây dựng được các cơ sở tình báo lẫy lừng như Huỳnh Bá Thành (Ba Trung, họa sĩ Ớt) lúc đó là Giám đốc kỹ thuật báo Điện tín - Cơ quan ngôn luận chính thức của nhóm Dương Văn Minh - để sử dụng báo Điện tín vào mục đích phân rã tư tưởng hàng ngũ địch, hướng dẫn dư luận theo hướng có lợi cho cách mạng và điều quan trọng nhất là góp phần vào việc gây áp lực buộc Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Dương Văn Minh đầu hàng vào ngày 30.4.1975. Nguyễn Hữu Khánh Duy còn xây dựng được các cơ sở như đồng chí Huỳnh Huề (Ba Hoàng) - nguyên sinh viên Đại học Khoa học, hiện nay là Thiếu tướng Tổng cục An ninh - Bộ Công An, Anh hùng lực lượng vũ trang (2010), kỹ sư Ngô Văn Dũng (Ba Hùng) lúc đó công tác tại Cơ quan phát triển kinh tế quốc gia và hàng chục cơ sở trọng yếu khác...
Trong lịch sử chiến tranh nhân loại, các trận đánh kết thúc cuộc chiến bao giờ cũng để lại cảnh hoang tàn hủy diệt, nhất là khi trận đánh cuối cùng diễn ra ở các thành phố lớn. Sự chống cự giãy chết luôn thảm khốc và quyết liệt. Thế nhưng công cuộc giải phóng Sài Gòn, kết thúc chiến tranh đã không diễn ra như vậy. Lý giải về điều này, CIA cho rằng "trùm tình báo" Mười Hương đã tiên liệu và góp phần chuẩn bị "hậu sự" cho VNCH từ trước năm 1972 để khi giải phóng Sài Gòn không có đổ máu và thành phố còn nguyên vẹn. Nói về vấn đề này, ông Mười Hương khẳng định: "Cụm điệp báo A10 ngoài những chiến công làm lũng đoạn chính trường VNCH, xoay chuyển dư luận báo chí quốc tế có lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước, thúc đẩy Dương Văn Minh đầu hàng và kêu gọi binh lính VNCH buông súng... còn có rất nhiều điệp vụ hoàn hảo khác cần được lịch sử ghi nhận. Ví như năm 1973, T4 chỉ đạo A10 đưa điệp viên của ta vào làm việc trong một cơ sở vệ tinh của CIA có trụ sở trong sân bay Tân Sơn Nhất. Cụm phó Năm Quang (bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy) và cụm phó Ba Hoàng (Thiếu tướng Huỳnh Huề) đã tuyển dụng 3 sinh viên vừa tốt nghiệp kỹ sư điện, điện tử loại giỏi ở Trung tâm kỹ thuật Phú Thọ Sài Gòn đưa vào mạng lưới của mình. Để đưa được người lọt vào cơ sở của địch phải qua được "máy nói dối" của CIA, Năm Quang phỏng đoán, máy đó có thể là một loại máy đo điện não đồ và điện tâm đồ. Thế là, Năm Quang đề nghị trước khi thi tuyển, 3 điệp viên chỉ nên ăn chơi và không giao tiếp với tổ chức một thời gian dài nhằm xếp bỏ mọi "tư tưởng cách mạng" trong tư duy. Cuối cùng, họ vượt qua được cuộc thi tuyển và vào làm chuyên viên chính thức. Từ đó, những thông tin tình báo tối mật của CIA đều có trên bàn làm việc của các vị lãnh đạo An ninh T4. "Chính A10 mà trực tiếp là Huỳnh Bá Thành và một số điệp báo khác đã tiếp cận, tạo lòng tin và có sự tác động trực tiếp để Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện, tránh một cuộc đổ máu vô ích" - ông Mười Hương cho biết.
Cứu những con người bất hạnh
Với một quá khứ hào hùng như vậy, sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy tiếp tục phục vụ trong lực lượng công an nhân dân và về hưu với cương vị bệnh xá trưởng của trại tạm giam Chí Hòa. Nhiều người dễ nghĩ rằng khi đã được nhà nước tưởng thưởng công trạng, ông sẽ an nhàn hưởng tuổi già. Nhưng cuộc đời ông lại bắt đầu một cuộc chiến mới với đầy gian nan - cuộc chiến với ma túy. "Con đường nào để đưa một nhà tình báo đến trại cai nghiện?"'- tôi hỏi? Ông già Khánh Duy tóc bạc như cước, hiền từ nói: "Khi còn là cụm phó điệp báo A10 dưới vỏ bọc bác sĩ trong quân đội Việt Nam Cộng hòa, sau giải phóng lại làm việc tại trại tạm giam Chí Hòa và nhất là khi làm hội thẩm tại TAND TP.Hồ Chí Minh, chú đã tiếp xúc với rất nhiều đối tượng nghiện ma túy, chứng kiến sự tàn phá ghê gớm của ma túy đối với con người. Có thể nói ma túy đã tàn phá sức khỏe, băng hoại đạo đức, biến dạng nhân cách để lại hậu quả vô cùng nặng nề, không những đối với bản thân người nghiện mà còn ảnh hưởng tới gia đình người nghiện và xã hội. Với kiến thức về ngành y, chú thấy mình cần phải có trách nhiệm làm một việc gì đó để cứu những con người này".
Nghĩ là làm, về hưu, ông cùng những người bạn cựu binh quyết định lập Trung tâm cai nghiện ma túy Thanh Đa - trung tâm cai nghiện ma túy đầu tiên trong cả nước không sử dụng tiền ngân sách nhà nước. Những người lính già không có tiền, họ phải lấy sổ đỏ làm vật thế chấp để xây dựng trung tâm. Thời gian đầu, khó khăn chồng chất khó khăn, nhưng với niềm tin mãnh liệt, sự uyển chuyển của một nhà tình báo lão luyện và được sự ủng hộ lớn của UBND TP.Hồ Chí Minh, ông khẳng định quyết tâm của mình: "Không thể để ma túy hủy hoại giống nòi dân tộc, trên mặt trận này, người chiến sĩ phải có tấm lòng nhân ái thì mới có thể chiến thắng". Ông bảo: "Những người nghiện ma túy, họ còn trẻ, nếu bỏ mặc, họ sẽ trượt mãi, vì vậy cần phải chiến đấu để đưa họ về với cuộc sống đời thường và có ích".
Dẫn tôi đi tham quan một lượt khu điều trị bệnh nhân nghiện ma túy, sạch đẹp như bệnh viện, học viên gắn bó với bác sĩ như những người thân trong gia đình, ông bảo: "Mỗi năm có gần 1.000 học viên được cai nghiện tại đây, mỗi người nghiện đều có phác đồ điều trị riêng và được Bộ Y tế kiểm duyệt. Với tôi bây giờ, hạnh phúc lớn nhất là được nhìn những học viên, những đứa con của mình bước ra khỏi trung tâm với dáng vẻ của một con người hoàn toàn bình thường". Như ngọn nến cháy đến giọt cuối cùng, những năm tháng tuổi già, nhà tình báo - bác sĩ Khánh Duy đã dành trọn tâm huyết cho công việc cai nghiện. Ông không chỉ tạo dựng một mái ấm thân thương cho những con người lầm lỡ, giành giật họ từ tử thần ma túy để trả về cho gia đình, cho xã hội mà còn tiếp tục nghiên cứu, tham gia các cuộc hội thảo trong nước và quốc tế để tìm ra các biện pháp cai nghiện tốt nhất. Với tấm lòng như vậy, ông đã được tặng thưởng hàng trăm danh hiệu các loại.
Chia tay, ông bảo: "Làm tình báo thời chống Mỹ cũng là vì con người, cai nghiện ma túy cũng là vì con người, quỹ thời gian của tôi còn ít quá mà công việc thì nhiều, tôi mong chờ một người trẻ có đủ tâm huyết, lòng nhân ái và hiểu rõ về việc cai nghiện ma túy để có thể tiếp nối con đường mà tôi đang đi".
Theo laodong
Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng về hưu Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng Ngày 27/2/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định nghỉ hưu theo chế độ đối với Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, từ ngày 1/3/2013. Quyết định 360/QĐ-TTg được đưa ra căn cứ vào Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25/12/2001, Căn cứ Quyết định của Bộ Chính trị số 690-QĐNS/TW, ngày 31/1/2013. Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng...