Sự tồn tại của những thành ngữ… “phi lý”
Trên báo chí gần đây, có bạn đọc nêu quan điểm: “Đành rằng, trong tiếng Việt, thành ngữ là những từ ngữ được dùng lâu, nhiều người dùng thành quen và được chấp nhận, nghe thuận tai”. Cách lập luận nêu trên như đã chấp nhận sự tồn tại của những thành ngữ “phi lý”
ảnh minh họa
“Khi những từ ngữ trở thành thành ngữ thì nghĩa của nó phải hợp lý”… Nhận xét trên là hết sức xác đáng với đa số thành ngữ tiếng Việt. Tuy nhiên bên cạnh đó, cũng còn một bộ phận nhỏ những thành ngữ mà thoạt nghe qua, nghĩa của nó lại hết sức …phi lý!
Có thể tìm ra những thành ngữ “phi lý” như vậy trong lời ăn tiếng nói hằng ngày: Cao chạy xa bay, con ông cháu cha, đầu gươm mũi súng, hương lạnh khói tàn, im hơi lặng tiếng, nhường cơm sẻ áo, sẩy đàn tan nghé, tối lửa tắt đèn, ruồi bu kiến đậu, mũi chỉ đường kim, hòn tên mũi đạn, tô son điểm phấn, mò cua bắt ốc, chăn êm nệm ấm…
Ai cũng biết “Thành ngữ là những cụm từ cố định có tính hoàn chỉnh về ngữ nghĩa, vừa có tính gợi cảm” ( Nguyễn Thiện Giáp) nhằm diễn tả một ý nghĩa, khái niệm nào đó thông qua một hình ảnh gợi tả, sinh động.
Các thành tố tạo nên thành ngữ thường sắp xếp theo từng đôi một, cùng trường nghĩa với nhau, có tác dụng bổ sung ý nghĩa cho nhau, cùng tạo nên một nghĩa khái quát:
Chân lấm tay bùn = chân, tay lấm, bùn
Đánh đông dẹp bắc = đánh, dẹp đông, bắc
Chân đồng da sắt = chân, da đồng, sắt
Trong trường hợp này có thể thay đổi vị trí các thành tố trong câu cho nhau mà không hề ảnh hưởng gì đến hình thức, ngữ nghĩa của cả thành ngữ (nếu có thì chỉ là sự không thuận tai về mặt ngữ âm, hay theo thói quen sử dụng mà thôi).
Thay da đổi thịt = đổi thịt thay da = thay thịt đổi da
Chân lấm tay bùn = tay bùn chân lấm = chân bùn tay lấm
Video đang HOT
Nhưng có nhiều trường hợp thì khó/ không thể thay đổi vị trí như trên được vì nó tạo nên một hình ảnh không phù hợp với hiện thực, phi logic tự nhiên, không thấy ai sử dụng:
Nhưng trong thực tế lại có một số thành ngữ cấu tạo theo kiểu “phi lí” như vậy đã tồn tại hiển nhiên trong vốn thành ngữ nước ta từ bao đời nay, và được sử dụng một cách tự nhiên như bao thành ngữ khác. Lâu nay có nhiều người thắc mắc rằng đó là những thành ngữ “phi lí”,cần phải được sửa lại theo đúng logic tự nhiên khi sử dụng. Vậy nó “phi lí” như thế nào? Có cần thiết phải chỉnh sửa hay không? Đơn cử một ví dụ: “Cao chạy xa bay”, thì sự phi hiện thực của nó là rõ ràng nhất và cũng là thành ngữ được sử dụng với tần số cao.
Có người băn khoăn: “Cao hay xa? – Xin giữ âm xa chạy cao bay thì đúng hơn. Vì xa thì chạy và cao phải bay, chứ cao chạy xa bay làm sao được. Câu này dịch ở “cao phi viễn tẩu” (Vũ Văn Kính).
Học giả Đào Duy Anh cũng cho rằng: “Xa chạy cao bay” chỉ con thú chạy cho xa để khỏi bị săn, con chim bay cho cao để khỏi bị bắn; nghĩa bóng là trốn đi xa.
Ngược lại, Trịnh Mạnh không đồng tình với ý kiến trên: “Có người lí luận rằng: Chạy đi với xa và bay đi với cao mới logic. Đây là lời Thúc Sinh khuyên Kiều khi tai hoạ sắp ập đến, phải thoát nhanh khỏi tay Hoạn Thư mới sống được. Vì vậy, cách nói cao chạy xa bay cũng gây được ấn tượng hơn, sự cần thiết phải trốn ngay được nhân lên gấp bội. Lời khuyên này còn mang một ý khẳng định. Nếu thay bằng “xa chạy cao bay” thì tác dụng tu từ sẽ bị giảm.
Vậy nghĩa của các thành ngữ nói chung được hình thành như thế nào?
Các thành ngữ thường có cấu trúc sóng đôi, cùng tồn tại bổ sung cho nhau, tạo nên một nghĩa chung, nên ý nghĩa của các thành ngữ nói chung không phụ thuộc vào thứ tự sắp xếp của các cặp từ, có đảo vị trí các cặp từ thì ý nghĩa chung của chúng vẫn không thay đổi.
Đặc điểm cơ bản nhất của thành ngữ là nghĩa của chúng được hình thành theo quy luật biểu trưng, không lệ thuộc vào nghĩa của từng thành tố cấu tạo mà đó là nghĩa khái quát, nghĩa bóng do tất cả các thành tố tạo nên, nếu tách các thành tố ra khỏi tổ hợp thì nghĩa bóng sẽ bị mất, chỉ còn nghĩa đen mà thôi. “Trong cuộc sống, người ta thường dùng một sự vật nào đó để nói lên một điều gì đó. Cách dùng như thế được gọi là biểu trưng” (Nguyễn Đức Dân).
Nghĩa là các hình ảnh, khái niệm hiện hữu bề mặt của thành ngữ chỉ là nghĩa đen, khi tìm hiểu thành ngữ phải đi sâu nhận thức cho được cái nghĩa biểu trưng là linh hồn, cốt lõi của thành ngữ, đặc biệt là thành ngữ “phi lí”.
Như “dây mơ rễ má” chỉ quan hệ bắc cầu giữa các đối tượng, nếu tách ra thì chỉ còn nghĩa thực vật là “dây của cây lá mơ” và “rễ của cây rau má” mà thôi, không còn nét nghĩa “mối quan hệ nữa”. Tương tự “chèo, chống” chỉ những động tác của nguời chèo thuyền, chống đò trên sông nước, nhưng thành ngữ “vụng chèo khéo chống” lại không liên quan gì đến nghĩa đen trên, mà nó chỉ sự giỏi chống chế, khéo nguỵ biện của một số ngưòi trong cuộc sống khi làm sai một điều gì đó mà không muốn nhận, cố xuê xoa đi.
Vậy có thể nói, trong thành ngữ, “ý nghĩa các từ đã hoà vào nhau để biểu thị một khái niệm mới” (Nguyễn Thiện Giáp) và vì thế, có tác giả đã dựa vào cơ chế cấu tạo mà xem chúng là loại “ thành ngữ hoà kết”.
Cũng cần lưu ý thêm, “quan hệ giữa các từ trong thành ngữ không theo một chiều của các thành tố trực tiếp như trong cụm từ tự do mà có tính chất chằng chéo, phức tạp, tạo ra tính cố định của thành ngữ” (Nguyễn Thiện Giáp) và để tạo ra sự đối ứng chặt chẽ, gắn bó khăng khít cả về mặt hình thức lẫn nội dung, nhiều khi, những trật tự logic thông thường trong thành ngữ không được tuân thủ, có thể thay đổi.
Như vậy, “tính biểu trưng là đặc điểm hàng đầu của thành ngữ về mặt ngữ nghĩa, là cơ chế tất yếu mà thành ngữ phải sử dụng để ghi nhận, diễn đạt những nội dung phức tạp hơn một khái niệm đơn” (Đỗ Hữu Châu).
Đã chấp nhận như trên, tức là đã xem nghĩa biểu trưng là nghĩa chính của thành ngữ nói chung, thành ngữ “phi lí” nói riêng thì chúng ta chấp nhận quy luật cấu tạo nghĩa biểu trưng, “đã hiểu theo nghĩa biểu trưng thì mỗi từ ở cặp này có thể ghép với bất kì từ nào ở cặp kia mà không cần quan tâm tới nghĩa đen tạo ra khi tổ hợp chúng với nhau” (Nguyễn Đức Dân).
Khi khảo sát thành ngữ “hòn tên mũi đạn”, chúng ta không cần thắc mắc là tại sao “mũi tên” thì dài lại gọi là “hòn”, còn “đạn” thì tròn lại nói là “mũi”, cần phải nói “mũi tên hòn đạn” mới đúng… Chúng ta chỉ cần nắm được nghĩa biểu trưng của thành ngữ này là chỉ “chiến trường, nơi có sự đối kháng về quân sự giữa hai phe tham gia chiến trận; nơi nguy hiểm”.
Thực tế nhiều người không hề biết đến nghĩa đen của các thành ngữ mà họ vẫn sử dụng rất chính xác, là bởi vì họ nắm vững được nghĩa biểu trưng. Ví như thành ngữ “mạt cưa mướp đắng”, không phải ai cũng biết các nghĩa đen từ các điển tích xưa của nó “người bán cám trộn lẫn mạt cưa giả làm cám, người bán dưa lấy mướp đắng giả làm dưa”. Nhưng chỉ cần nắm được nghĩa biểu trưng “lừa đảo, bịp bợm” thì đã có thề sử dụng thành ngữ trên mà không sợ sai.
Như trên đã phân tích, các hình ảnh, khái niệm hiện hữu bề mặt của thành ngữ chỉ là nghĩa đen. Để tìm hiểu thành ngữ chúng ta cần phải đi sâu nhận thức cho được cái nghĩa biểu trưng của thành ngữ ẩn tàng đằng sau các hình ảnh bề mặt kia, đó chính là linh hồn, là cốt lõi của thành ngữ, đặc biệt là thành ngữ “phi lí”. Và khi đã quan niệm như trên, rõ ràng không còn một thành ngữ nào được xem là thành ngữ “phi lí” nữa cả.
“Tính biểu trưng là đặc điểm hàng đầu của thành ngữ về mặt ngữ nghĩa, là cơ chế tất yếu mà thành ngữ phải sử dụng để ghi nhận, diễn đạt những nội dung phức tạp hơn một khái niệm đơn” (Đỗ Hữu Châu).
Theo Giaoducthoidai.vn
Chương trình phổ thông mới có gì khác hiện hành?
Dự thảo các chương trình môn học, hoạt động giáo dục trong chương trình phổ thông mới chính thức được Bộ GD-ĐT công bố chiều 19-1.
Học sinh xem đề thi ngữ văn trong kỳ thi tuyển sinh lớp 10 tại TP HCM - Ảnh: Hoàng Triều
So với chương trình hiện hành, chương trình phổ thông mới có rất nhiều điểm thay đổi theo hướng trang bị năng lực, phẩm chất cho các học sinh. Vì thế, chương trình mỗi môn học cũng thay đổi mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu này. Các môn học theo chương trình mới sẽ được phân chia thành 2 loại: Môn học, hoạt động bắt buộc và môn học tự chọn.
Cụ thể, ở cấp tiểu học, các môn học bắt buộc gồm: Tiếng Việt, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục lối sống, Đạo đức, Tự nhiên và xã hội, Lịch sử và Địa lý, Khoa học, Tin học và Công nghệ, Giáo dục thể chất, Nghệ thuật.
Môn học tự chọn là Tiếng dân tộc thiểu số và Ngoại ngữ 1 (đối với lớp 1 và 2).
Ở cấp THCS, các môn học bắt buộc: Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục công dân, Khoa học tự nhiên, Lịch sử và Địa lý, Tin học, Công nghệ, Giáo dục thể chất, Nghệ thuật.
Môn học tự chọn: Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 2.
Ở cấp THPT, các môn học bắt buộc: Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục thể chất, Giáo dục quốc phòng và an ninh.
Các môn học được lựa chọn: theo nhóm Khoa học Xã hội (gồm các môn Giáo dục kinh tế và pháp luật, Lịch sử, Địa lý), nhóm Khoa học Tự nhiên (gồm các môn Vật lý, Hóa học, Sinh học), nhóm Công nghệ và Nghệ thuật (gồm Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật).
Các môn học tự chọn: Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 2.
Đặc biệt, hoạt động giáo dục bắt buộc xuyên suốt tất cả các cấp học là Hoạt động trải nghiệm.
Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, Tổng Chủ biên chương trình phổ thông mới, nói thêm đây là chương trình phát triển toàn diện phẩm chất năng lực của người học, nên trước hết những người làm chương trình phải phân giải được năng lực chuyên môn của từng môn học là cái gì để từ đó xác định mức độ học sinh cần đạt ở mỗi lớp, mỗi cấp học
Điểm mới thứ hai là chương trình mới có tính phân hóa rõ rệt hơn so với chương trình hiện hành. Có thể nói sự phân hóa đã được thực hiện ngay từ tiểu học.
Chương trình mới chủ trương phân hóa và càng ở các cấp học cao, phân hóa càng sâu. Đến cấp trung học phổ thông, sự phân hóa sâu nhất, tức là phân hóa theo định hướng nghề nghiệp của học sinh. Học sinh không phải học tất cả các môn nữa mà tập trung vào một số môn theo nguyện vọng và theo định hướng nghề nghiệp của mình.
Điểm thứ ba là tính tích hợp cao. Phải dạy tích hợp vì kiến thức của nhân loại ngày càng nhiều. Nếu tách từng môn ngay từ bậc tiểu học và trung học cơ sở thì học sinh sẽ học quá sâu về môn đó, vừa quá tải vừa khó cho học sinh tổng hợp kiến thức để vận dụng trong cuộc sống.
Tiểu học nhiều môn tích hợp hơn, trung học cơ sở có tích hợp nhưng ở mức độ khác hơn, có tách môn. Bậc trung học phổ thông thì sự tích hợp chỉ ở mức liên hệ, các môn tách riêng. Điều này phù hợp với khả năng nhận thức của người học.
Điểm mới thứ tư của các chương trình môn học là tăng cường tính thiết thực, tính thực hành. Trước nay, chúng ta vẫn nói học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Nhưng trên thực tế, có nhiều môn càng ngày càng xa với thực tiễn, học sinh học xong không biết làm gì.
Chương trình môn học mới sẽ chọn những nội dung thực sự cần thiết cho con người. Bên cạnh đó là tăng tính thực hành lên. Học sinh học thông qua thực hành chứ không thuần túy qua sự truyền giảng của các thầy cô.
Theo NLĐ
Bao giờ chính thức có sách giáo khoa mới? Chiều nay, 19.1, Bộ GD ĐT đã tổ chức họp báo công bố chính thức dự thảo các môn học, hoạt động giáo dục trong chương trình giáo dục tổng thể để nhận các góp ý của dư luận xã hội và các nhà chuyên môn. Theo dự thảo, chương trình mới sẽ có 20 môn/hoạt động giáo dục. Trong đó, có những...