Standard Chartered dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 3% năm 2020
Các chuyên gia của Standard Chartered dự báo nhu cầu của thị trường thế giới có khả năng sẽ được cải thiện trong quý 4 và thúc đẩy tăng trưởng của lĩnh vực sản xuất, ước đạt khoảng 7,3% trong 2020.
Theo dự báo của Ngân hàng Standard Chartered, nền kinh tế Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng 3% trong năm 2020 và vượt lên 7,8% vào năm 2021. Hoạt động tiêu dùng gia tăng nhờ yếu tố tâm lý thị trường được cải thiện và lĩnh vực sản xuất tăng tốc sẽ là động lực tăng trưởng chính trong quý 4 năm nay.
Dự báo trên được đưa ra trong Báo cáo nghiên cứu toàn cầu của ngân hàng mang tựa đề “Vietnam-Q3 disruption, but recovery remains intact” (tạm dịch “Việt Nam-tăng trưởng bị gián đoạn trong quý 3 nhưng triển vọng phục hồi ổn định”).
Ông Chidu Narayanan, chuyên gia kinh tế khu vực châu Á, Ngân hàng Standard Chartered chia sẻ: “Việt Nam nằm trong số ít những nền kinh tế ở châu Á ghi nhận mức tăng trưởng dương trong năm nay, bất kể những ảnh hưởng của làn sóng COVID-19 thứ hai. Chúng tôi dự đoán tăng trưởng trong quý 4 sẽ gia tăng nhờ sự phục hồi của hoạt động kinh tế trong nước và yếu tố tâm lý thị trường. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng và tăng trưởng của lĩnh vực dịch vụ được cải thiện sẽ giúp Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng vượt trội hơn so với các nền kinh tế khác tại châu Á. Chúng tôi duy trì quan điểm tích cực về triển vọng kinh tế Việt Nam trong trung và dài hạn.”
Theo báo cáo kinh tế vĩ mô mới nhất về Việt Nam, nhu cầu của thị trường thế giới có khả năng sẽ được cải thiện trong quý 4 và thúc đẩy tăng trưởng của lĩnh vực sản xuất, ước đạt khoảng 7,3% trong 2020. Hoạt động xuất nhập khẩu, do đó, cũng sẽ gia tăng và tiếp tục tạo ra thặng dư thương mại trong năm nay.
Hoạt động xây dựng dự kiến sẽ hồi phục trong quý 4 nhờ đầu tư công vào cơ sở hạ tầng được thúc đẩy. Tiêu dùng cá nhân, vốn đóng góp 68% vào GDP, được dự báo sẽ tăng mạnh trong quý cuối cùng của năm nhờ yếu tố tâm lý thị trường được cải thiện. Tuy nhiên, đầu tư của lĩnh vực tư nhân có khả năng sẽ không mấy khởi sắc trước những lo ngại về nhu cầu trong trung hạn.
Các chuyên gia của Standard Chartered dự báo dòng vốn FDI đăng ký mới vào Việt Nam sẽ suy giảm trong năm nay, nhưng vẫn ở mức cao khảong đạt 13 tỷ USD. Nhu cầu thế giới bất ổn và tâm lý đầu tư ảm đạm sẽ ảnh hưởng đến dòng vốn FDI trong trung hạn. Mặc dù Việt Nam đang hưởng lợi từ xu hướng chuyển dịch khu vực sản xuất trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị leo thang, dòng vốn đổ vào Việt Nam được dự đoán sẽ thấp hơn những năm trước. Các biện pháp hỗ trợ từ Chính phủ và sự dịch chuyển của hoạt động sản xuất không yêu cầu công nghệ cao sẽ hỗ trợ thúc đẩy dòng vốn FDI vào Việt Nam.
Nghiên cứu cũng dự đoán Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì chính sách linh hoạt trong ngắn hạn để hỗ trợ tăng trưởng. Ngân hàng Nhà nước đã cắt giảm lãi suất chính sách thêm 50 điểm phần trăm xuống mức thấp lịch sử 4% vào ngày 1/10, đúng như dự đoán của Standard Chartered hồi tháng 5/2020. Việc Ngân hàng Nhà nước cắt giảm lãi suất tổng cộng 200 điểm phần trăm từ đầu năm đến nay và nền kinh tế được mở cửa trở lại sẽ thúc đẩy tăng trưởng tín dụng trong ngắn hạn.
Video đang HOT
Trước đó, Ngân hàng Nhà nước cũng đưa ra ước tính tăng trưởng GDP cả năm 2020 của Việt Nam từ 2,5-3% và năm 2021 đạt từ 6,3%-11,2%.
Vì vậy, theo Ngân hàng Nhà nước, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2021 sẽ hồi phục trở lại, tuy nhiên đà hồi phục có thể theo 2 kịch bản:
Kịch bản 1, nếu dịch bệnh trong nước được tiếp tục kiểm soát, dịch bệnh trên thế giới được đẩy lùi. Theo đó, các hoạt động dịch vụ, thương mại hàng hóa sẽ nhanh chóng được khôi phục trở lại. Sự kết nối lại chuỗi cung ứng sẽ giúp Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ do lợi thế về kiểm soát sớm dịch bệnh. Với kịch bản này, tăng trưởng GDP năm 2021 dự kiến có thể đạt 6,5-7,5%.
Với kịch bản 2, trường hợp dịch bệnh diễn biến phức tạp tiếp tục ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế và tiếp tục chịu ảnh hưởng đáng kể trong nửa đầu năm 2021. Sự hồi phục chậm của kinh tế thế giới sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước do Việt Nam có độ mở cửa lớn và đang tham gia nhiều hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Với kịch bản này, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2021 có thể đạt từ 5-6%./.
Chính phủ tiêu dùng và đầu tư như thế nào?
Thay vì tăng tiêu dùng, Chính phủ nên theo hướng tăng cường hiệu quả đầu tư để tiền thực sự đến được với sản xuất và tạo tăng trưởng GDP.
Ảnh minh họa.
Trước tác động của Covid-19, Chính phủ kiên định thực hiện "mục tiêu kép" cho năm nay: đẩy lùi dịch bệnh và phát triển kinh tế.
Trong phát triển kinh tế, một trong những yêu cầu Chính phủ đặt ra mạnh mẽ thời gian qua và từ nay đến cuối năm là hoàn thành chỉ tiêu giải ngân đầu tư công.
Cùng đó, kích cầu nền kinh tế cũng là "đề bài" được nêu tại các phiên họp thường kỳ gần đây. Trong kích cầu, tiêu dùng của Chính phủ được xem là một lực đẩy, bao gồm đầu tư công, để cùng tạo hiệu ứng.
Nhưng, Chính phủ đang tiêu dùng và đầu tư như thế nào và nên như thế nào? BizLIVE xin giới thiệu bài viết và góc nhìn của TS. Bùi Trinh, Viện Nghiên cứu Phát triển Việt Nam.
GDP nhìn từ góc độ chi tiêu mà nhiều người gọi là "tổng cầu" thực ra là tổng cầu cuối cùng (final demand expenditure). Về nguyên tắc của Hệ thống các tài khoản Quốc gia (System of National Accounts - SNA) của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam áp dụng từ năm 1993 với Quyết định 183/TTg của Thủ tướng Chính phủ, tổng cầu bao gồm cầu trung gian (intermediate demand) và cầu cuối cùng.
GDP nhìn từ phía chi tiêu (phía cầu) bao gồm tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình, chi tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ, đầu tư và xuất khẩu thuần hàng hóa và dịch vụ.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê những năm qua về các yếu tố của tổng cầu cuối cùng cho thấy, tỷ lệ tiêu dùng cuối cùng của dân cư so với GDP của Việt Nam trong 10 năm qua chiếm khoảng 68% (trong khi đó tỷ lệ này của Trung Quốc chỉ là 39%, Hoa Kỳ 68%).
Tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ so với GDP là 6% (Trung Quốc 14%, Hoa Kỳ 10%); đầu tư so với GDP là 30% (Trung Quốc là 45%, Hoa Kỳ 25%).
Tỷ lệ tiêu dùng cuối cùng so với GDP của Trung Quốc chỉ là 39%, như vậy để bù khoản thiếu hụt trong tiêu dùng cuối cùng nhưng vẫn muốn có tăng trưởng cao về GDP, Trung Quốc phải tung ra một lượng đầu tư cực lớn chiếm tới 45% GDP.
Xét về xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ chỉ có Trung Quốc có thặng dư thương mại. Việt Nam và Hoa Kỳ thâm hụt thương mại đối với xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Điều này cho thấy tiêu dùng cuối cùng của dân cư đóng vai trò quan trọng trong quy mô GDP của Việt Nam.
Ngoài ra, tính toán từ các mô hình cân bằng tổng thể cho thấy trong các yếu tố của cầu cuối cùng như tiêu dùng cuối cùng của dân cư, tiêu dùng của Chính phủ, đầu tư và xuất khẩu thì tiêu dùng cuối cùng của dân cư lan tỏa tốt nhất đến giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm của nền kinh tế Việt Nam.
Xét rộng hơn, nguồn lực thực sự của một quốc gia không phải chỉ có GDP mà còn các chỉ tiêu vĩ mô khác như thu nhập quốc gia (GNI), thu nhập quốc gia khả dụng (GNDI) và tiết kiệm (saving) của nền kinh tế. Tiết kiệm là nguồn lực cơ bản để tái đầu tư, nếu nguồn lực thiếu thì phải đi vay. Tiết kiệm của nền kinh tế được xác định bằng GDP thu nhập sở hữu thuần chuyển nhượng thuần chuyển nhượng vốn - (trừ) tiêu dùng của dân cư và tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ.
Hiện nay thu nhập sở hữu thuần luôn là số âm. Theo số liệu thông kê mới cập nhật năm 2019, luồng tiền chẩy ra nước ngoài thông qua chi trả sở hữu (cơ bản của khối FDI) khoảng 16 tỷ đô la Mỹ, rất may mắn là năm 2019 Viết Nam cũng nhận được khoản chuyển nhượng hiện hành (kiều hối) khoảng 16,7 tỷ đô la Mỹ để bù vào khoản FDI chuyển tiền về nước mẹ.
Khi nguồn lực thực sự của nền kinh tế thiếu hụt sẽ dẫn đến vay mượn. "Sách trắng về doanh nghiệp Việt Nam 2020" cho thấy, nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp Nhà nước rất cao và có xu hướng tăng lên, năm 2011 nợ phải trả so với vốn chủ sở hữu của khu vực này là 3,1/1 thì đến năm 2018 đã là 4,2/1.
Năm 2020 do ảnh hưởng của dịch Covid-19 trên toàn thế giới có thể lượng kiều hối vào Việt Nam không còn như năm 2019; ước tính tiết kiệm so với GDP chỉ còn khoảng 20%, trong khi để duy trì tăng trưởng GDP đầu tư vẫn cần phải chiếm khoảng 33% GDP.
GDP là chỉ tiêu rất sơ khởi trong các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, việc tăng chi tiêu Chính phủ có thể làm tăng GDP nhưng lại làm giảm nguồn lực thực sự của nền kinh tế.
Chi tiêu của Chính phủ bao gồm chi tiêu dùng cuối cùng (một phần trong chi thường xuyên) và chi đầu tư công. Chi tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ được tính vào GDP là các khoản chi duy trì bộ máy.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, có độ lệch rất lớn giữa vốn đầu tư phát triển toàn xã hội và tích lũy tài sản. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội là khoảng tiền của xã hội cho mục đính đầu tư và tích lũy tài sản được hiểu là lượng tiền cho đầu tư đến được với sản xuất để tạo ra tài sản cố định và thay đổi tồn kho.
Năm 2019 vốn đầu tư phát triển toàn xã hội chiếm trong GDP là 33% nhưng tích lũy tài sản chỉ chiếm trong GDP khoảng 26%. Như vậy chính sách của Chính phủ nên theo hướng tăng cường hiệu quả đầu tư để lượng tiền nhằm mục đích đầu tư thực sự đến được với sản xuất để tạo tăng trưởng GDP, để đảm bảo phát triển bền vững Chính phủ không nên là "người tiêu dùng lớn nhất".
World Bank: Dự trữ ngoại hối tăng thêm 12 tỷ chứng tỏ khả năng phục hồi của nền kinh tế Việt Nam Vào cuối tháng 8, dự trữ ngoại hối của NHNN là 92 tỷ USD, tăng so với mức 80 tỷ USD vào cuối tháng 12. Mặc dù mức tăng này không cao như mức tăng cùng kỳ năm 2019, nhưng nó chứng tỏ khả năng phục hồi của nền kinh tế Việt Nam. Trong báo cáo Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt...