Sẽ thi ĐH nhiều môn và buộc có môn xã hội
Đó là quan điểm đổi mới đối với kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ của Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga. Ông Ga cho rằng, từ nay đến năm 2015 cần thay đổi quy định về số môn thi và khối thi tuyển vào ĐH, CĐ.
Theo Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga, từ nay đến năm 2015 cần thay đổi số môn thi và khối thi ĐH, CĐ. Theo đó, cần thi nhiều môn (thay vì chỉ ba môn như hiện nay) và dù là ngành nào cũng bắt buộc phải có một môn khoa học xã hội.
Ông Bùi Văn Ga
Bắt đầu từ kết quả thi môn lịch sử thấp đến không ngờ trong tuyển sinh năm nay. Thứ trưởng Bùi Văn Ga cho rằng:
- Môn lịch sử, cũng như các môn xã hội, sẽ khó có thể tạo ra sự thay đổi một cách đột biến trong cách học tập và kết quả của thí sinh nếu không thay đổi cách thi cử hiện nay. Cách thi hiện nay khiến phần lớn thí sinh coi nhẹ các môn xã hội như ngữ văn, lịch sử khi chọn các khối thi khác. Ngay cả những thí sinh chọn thi khối C vì bất đắc dĩ cũng học đối phó…
- Với quan điểm phải đổi mới cách thi không chỉ vì cải thiện thái độ và phương pháp học tập của thí sinh với môn lịch sử nói riêng và các môn xã hội nói chung, mà còn nhằm có phương thức thi cử hợp lý và hiệu quả hơn, Bộ GD-ĐT sẽ có định hướng đổi mới kỳ thi tuyển sinh năm tới ra sao, thưa ông?
- Quan điểm của tôi là nên thi ĐH bằng nhiều môn chứ không nên quy định cứng nhắc khối thi và môn thi bắt buộc cho từng khối như hiện nay. Định hướng lâu dài là nên đổi mới kỳ thi tuyển sinh ĐH theo hướng tổ chức thi nhiều môn khác nhau trong một đợt thi ba ngày.
Thí sinh có thể lựa chọn đăng ký dự thi những môn phù hợp với nguyện vọng xét tuyển của mình. Các trường ĐH công bố trước tổ hợp 3-4 môn thi để xét tuyển chọn vào trường cho từng ngành học.
Các trường được lựa chọn môn thi tuyển phù hợp với ngành nghề đào tạo, nhưng theo tôi, trong đó ngành nào cũng nên bắt buộc phải có một môn khoa học xã hội. Điều đó là cần thiết vì dù học ngành nào, làm việc trong lĩnh vực nào, một con người không thể thiếu kiến thức khoa học xã hội, thiếu khả năng viết hoặc thể hiện suy nghĩ, ý tưởng…
Ở bất cứ ngành nào, có chuyên môn vững vàng nhưng vẫn cần thiết phải có kiến thức khoa học xã hội, nắm vững các giá trị nhân văn nhất định mới có thể dễ đi đến thành công. Nhất là trong bối cảnh xã hội tri thức hiện nay, ngày càng đòi hỏi nhân lực trình độ cao phải có sự cân đối giữa kiến thức khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội nhân văn.
Thay đổi cách thi và yêu cầu tuyển chọn như vậy sẽ đòi hỏi học sinh và nhà trường phổ thông không thể học lệch, thi lệch… Quan điểm của tôi là người học phải học đều, không được coi nhẹ môn nào, nhất là ngữ văn và lịch sử, không thể duy trì cách học, cách thi như hiện nay được. Nếu thay đổi một cách căn cơ, đồng bộ cả trong cách dạy, cách học và cách thi cử thì mới có hiệu quả.
Theo Thứ trưởng Bùi Văn Ga, thí sinh dự thi ngành nào cũng nên bắt buộc phải có một môn khoa học xã hội. Trong ảnh: thí sinh dự thi vào Trường ĐH Mở TP.HCM năm 2011 trao đổi bài sau khi thi
Video đang HOT
- Nếu được nhìn nhận tích cực như vậy, liệu định hướng đổi mới này có được đặt ra và áp dụng từ kỳ thi tuyển sinh năm 2012?
- Đổi mới về thi cử, thay đổi phương thức tuyển sinh liên quan đến quyền lợi của hàng triệu thí sinh. Vì vậy, cần có sự chuẩn bị không chỉ về phía Bộ GD-ĐT hay các trường ĐH, CĐ, mà cả cho thầy cô giáo và học sinh ở bậc THPT. Để có thể áp dụng được phương thức tuyển sinh mới, tôi cho rằng phải có một lộ trình ít nhất ba năm, để các em học sinh ngay từ khi mới bước vào THPT đã có định hướng và sự chuẩn bị thích ứng với phương thức thi cử mới.
Vì vậy, kỳ thi tuyển sinh năm 2012 sẽ là năm mở đầu cho lộ trình đổi mới thi cử. Từ nay đến năm 2015, Bộ GD-ĐT sẽ đổi mới từng bước để tiến tới mục tiêu đổi mới cơ bản thi tốt nghiệp và thi tuyển sinh ĐH. Mỗi giải pháp kỹ thuật, những thay đổi trong phương thức thi cử dự kiến được áp dụng sẽ được bộ thông báo rộng rãi. Chúng tôi mong muốn nhận được sự quan tâm và đóng góp ý kiến của xã hội về vấn đề này.
- Kết quả thấp bất ngờ trong cuộc thi Olympic toán học năm 2011 đang đặt ra vấn đề cần áp dụng trở lại quy định xét tuyển thẳng vào ĐH đối với học sinh đoạt giải học sinh giỏi quốc gia nhằm khuyến khích và thu hút các em. Dường như thứ trưởng và Bộ GD-ĐT cũng ủng hộ quan điểm này?
- Trước đây chúng ta đã có chính sách xét tuyển thẳng vào ĐH đối với những học sinh đoạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia. Còn đối với học sinh trong các đội tuyển dự thi Olympic quốc tế hiện nay vẫn được tuyển thẳng. Nhưng việc tuyển thẳng học sinh đoạt giải quốc gia trước đây cho thấy không phải là một giải pháp tốt nhất có thể áp dụng đại trà để khuyến khích người học giỏi.
Vì vậy, tôi ủng hộ việc xem xét có chính sách xét tuyển thẳng đối với học sinh đoạt giải học sinh giỏi quốc gia nhưng chỉ xét vào những ngành khoa học cơ bản, đào tạo gắn liền với môn các em đã đoạt giải. Sắp tới, Bộ GD-ĐT sẽ nghiên cứu, lấy ý kiến về việc này. Nếu khả thi và hợp lý, có thể áp dụng chính sách xét tuyển thẳng học sinh đoạt giải quốc gia vào các ngành đào tạo khoa học cơ bản từ năm tới.
Tôi cho rằng nên coi việc xét tuyển thẳng vào ĐH đúng ngành đào tạo khoa học cơ bản phù hợp với môn học sinh đoạt giải quốc gia, quốc tế như một động lực, tạo điều kiện cho các em phát huy năng lực, sở trường bản thân, có lợi cho đất nước và nền khoa học. Không nên coi chính sách tuyển thẳng là một phần thưởng…
Theo BĐVN
'Cô gái đẹp' của chính nghĩa
Trước quan điểm cá nhân của Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga về vai trò của khoa học xã hội và kiến nghị của nhà văn Nguyên Ngọc "không nên lẫn lộn chính trị với lịch sử", PGS Võ Văn Sen, Hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG TP.HCM) bày tỏ, khoa học lịch sử "không phải là cô gái đẹp của mọi người", mà là "cô gái đẹp của chính nghĩa". Vì thế, đương nhiên khoa học lịch sử phục vụ cho chính trị, nhưng là chính trị đúng đắn.
Phóng viên: Thưa ông, khoa học xã hội và nhân văn có ý nghĩa với chúng ta như thế nào?
Ông Võ Văn Sen: Trước hết, phải có cái nhìn rộng lớn về ý nghĩa của khoa học xã hội nhân văn đối với thế giới và sau đó mới bàn về nước ta, từ đó nhìn thấy vấn đề của mình trong bối cảnh chung.
Nhìn lại chủ nghĩa tư bản, khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật có những bước tiến vượt bậc, kỳ diệu, như từ sau thế chiến thứ hai đến nay, tổng sản phẩm làm ra bằng cả giai đoạn từ khi có con người đến trước thế chiến II. Tuy nhiên, lực lượng xã hội bị hút vào khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật rất lớn.
Trong khi đó, khoa học xã hội đi chậm hơn, đi sau. Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản cũng nhận ra nhanh chóng nếu để KHXH đi chậm như vậy là một tổn thất to lớn của loài người.
Chẳng hạn công nghệ gen. Nếu không có sự kiểm soát của chủ nghĩa nhân văn thì công nghệ này có thể chế tạo ra con người trong xưởng máy, hủy diệt gia đình, tình yêu. Khoa học nhân văn định hướng vạch ra lý lẽ cho sự phát triển của xã hội. Ngay cả vũ khí nguyên tử, vũ khí hóa học có thể tiêu diệt mấy chục lần cả nhân loại. Do vậy, khoa học cần phải có lý trí sáng suốt dẫn đường, đó chính là khoa học xã hội.
Những nước phát triển đã cố gắng tạo ra những quỹ cho khoa học xã hội để phát triển khoa học xã hội cân bằng, cân đối với khoa học tự nhiên. Tùy theo các nước mà tỉ lệ này có thể khác nhau.
Giáo dục Mỹ là một nơi để ta có thể suy ngẫm về vấn đề này.
Trong giáo dục phổ thông, có những môn tự chọn và bắt buộc. Không có nước nào có môn học tự chọn mà không xếp môn Lịch sử vào hàng môn học bắt buộc. Vì là môn bắt buộc nên dành một thời gian thích đáng để dạy môn sử (4 đến 6 tiết/tuần). Ta chỉ có 2 tiết sử một tuần ở lớp 12. Quan trọng hơn, khi xét chọn vào đại học, bảng điểm ở phổ thông cũng là cân nhắc rất lớn, nếu các môn bắt buộc mà học kém thì ít có cơ hội vào các trường danh tiếng.
Vị trí của môn sử và nhiều môn khoa học xã hội khác ở Mỹ có vị trí rất lớn. Đây là sai lầm của ta. Những môn khoa học xã hội, ngoại trừ môn văn, nhìn chung bị đánh giá thấp ở trường phổ thông, chỉ tập trung vào môn chính thi đại học. Người ta xem thấp người dạy những môn này, rồi xã hội cũng xem thấp. Đây là trở ngại chính cho chúng ta nâng chất môn sử lên.
Có phải yếu tố chính trị lồng ghép trong môn Lịch sử cũng là nguyên nhân làm cho HS chán học môn này?
Các nước tư bản cũng đưa chính trị vào sử theo kiểu của người ta chứ không phải là phi chính trị. Nhưng khoa học lịch sử "không phải là cô gái đẹp của mọi người", mà là "cô gái đẹp của chính nghĩa". Vì thế, đương nhiên khoa học lịch sử phục vụ cho chính trị, nhưng là chính trị đúng đắn.
Học sử cuối cùng là đi đến nhận thức về sự phát triển của lịch sử, giá trị, kinh nghiệm, bài học của nó, đâu là chính nghĩa, đâu là tà. Vua nào là vương đạo, vua nào là tà đạo. Triều đại như thế nào là đúng. Như vậy nhà sử phải phê phán, và từ đó đi đến vấn đề chính trị.
Lịch sử chiều theo chính trị, là cô gái đẹp của mọi người mới là sai, còn là cô gái đẹp của chính nghĩa là cần thiết.
Thưa ông, vậy thì điều gì thực sự khiến các em chưa thiết tha với lĩnh vực có nhìêu hấp dẫn này?
Trở ngại chính hiện nay là tư duy của lãnh đạo. Chúng tôi đã có nhiều hội thảo lớn, cách đây 5 - 7 năm rồi, gần đây nhất là ở Hà Nội cách đây 3 năm, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã có cuộc hội thảo lớn về dạy sử ở phổ thông. Chúng tôi đã kiến nghị: Tình hình dạy và học sử hiện nay không bình thường. Thế nhưng, những người lãnh đạo chính trị xã hội, lãnh đạo trong giáo dục không nhận thức được vấn đề không bình thường đó.
Vì vậy, việc chúng tôi có hội nghị là để có chiến lược sửa một cách căn cơ vấn đề dạy khoa học xã hội và nhân văn của nước ta, trong đó nổi cộm lên là Lịch sử.
Chữa vấn đề sử phải đặt trong vấn đề sửa chung đó. Có thể coi đó là một quốc nạn. Đây là một tai họa tinh thần đối với dân tộc. Việc không học sử, không hiểu sử ngày càng trầm trọng làm nghèo nàn đi nhận thức của dân tộc, mai một đi truyền thống dân tộc, là một cái họa lớn, là cái điềm mất nước.
Dân tộc ta cho đến thế kỷ 20 dạy sử rất nhiều, sử dụng sử rất nhiều, có những sử gia đứng hàng đầu trong số các nhà khoa học xã hội, dùng sử đào tạo cán bộ, người lãnh đạo.
Nếu không có 3 ngành Văn- Sử-Triết, 3 khoa nòng cốt của khoa học xã hội nhân văn, nếu trường nhân văn không có ba khoa này thì không có trường. Tổ tiên ta rất chú trọng đến 3 ngành này trong suốt mấy ngàn năm, để văn hóa Việt Nam hòa nhập nhưng không hòa tan, có bản lĩnh, Việt hóa những cái bên ngoài nhập vào.
Thưa ông, vậy có điều gì không bình thường ở đây?
Cái bất bình thường của chúng ta là ngành giáo dục đã làm mất truyền thống này, mất truyền thống trọng sử và học sử. Do vậy, phải nhận thức chiều sâu và nguyên nhân tai họa đó. Không biết đến tổ tiên nguồn gốc thì mất nước. Chúng ta mất nước ngàn năm mà không mất nước hẳn vì tất cả đều có ý chí khôi phục sự nghiệp của vua Hùng.
Phải có một chiến lược và bắt đầu từ trên xuống, chứ không phải từ dưới lên, lâu dài và toàn diện mới ra khỏi vấn đề này.
Một trong những vấn đề này là cải tiến cách dạy và học. Phải thay đổi vị trí của môn học. Chúng ta có truyền thống trọng thi cử. Nếu không cho thi thì khó lòng mà thúc đẩy sự học môn sử. Phải dành một số giờ lớn. Muốn vậy phải làm tín chỉ ở trung học, liệt sử vào môn bắt buộc thì mới dành thời gian được. Đó là mô hình của nước Mỹ.
Đã là môn bắt buộc rồi thì phải có vị trí trong mọi kỳ thi quan trọng của đất nước, trong tuyển chọn vào đại học, cao đẳng. Ví dụ như ở Mỹ, hồ sơ nộp vào đại học sẽ thể hiện học lực các môn bắt buộc, trong đó có sử. HS hiểu điều đó nên phải học rất nghiêm túc.
Hiện đại hóa phương pháp học tập: thay đổi sách giáo khoa, dung lượng phong phú, cách soạn khoa học, thuyết trình, bình luận, xem phim, nhận xét bài thi của HS. Sách lịch sử của HS phổ thông Mỹ dày hơn 1.000 trang, của ta vài trăm trang, không thấm tháp gì.
Các môn khoa học xã hội cũng bắt buộc như vậy.
Đừng cho là cách dạy của chúng ta áp đặt. Chẳng hạn như môn Văn đã có đề mở để HS bày tỏ chính kiến. Tuy nhiên, đề Sử chưa cải tiến ngay được như vậy, mặc dù có cải tiến so với trước đây, vì cách dạy ở phổ thông chưa thích ứng được. Sau này, có những đề hay, HS thoải mái bình luận. Do vậy, chúng ta chỉ nhích được từng bước. Quy lại. là phải cải tiến cách ra đề.
Khối thi đại học thay đổi như thế nào nếu như bắt buộc học văn, sử?
Chúng ta có nên tiếp tục chọn 4 khối thi hay sắp xếp lại. Phải có trọng lượng các môn xã hội vào các khối thi. Chỉ có khối D là khá cân bằng. Trong khi đó khối A và B chưa có. Còn cụ thể ra sao, các chuyên gia sẽ phải nghiên cứu chứ chưa đưa ra mô hình vội.
Đó là trước mắt, còn về lâu dài, phải nghiên cứu để trong vòng 5-10 năm sau, chúng ta chuyển thi theo lối thi hiện đại của thế giới, chẳng hạn như SAT, TOEFL...bên cạnh xét chọn.
Tuy nhiên, bắt chước Mỹ cũng chỉ từng phần thôi vì phụ thuộc vào văn hóa của từng nước.
Theo VNN
Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga: "Không thể có 2 mức điểm sàn" "Luật Giáo dục đã quy định bằng cấp giữa trường đại học công lập và dân lập có giá trị như nhau nên không thể mỗi trường đại học lại có mức điểm sàn khác nhau được". Trao đổi với Dân trí ngày 5/8, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga (ảnh) cho biết như vậy sau khi Hiệp hội các trường đại...