Sẽ có quy định mới về chuẩn chính tả?
Bộ GD-ĐT vừa tổ chức hội thảo về chính tả trong chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới nhằm giảm tối đa tình trạng ‘loạn’ quy định chính tả, ít nhất là trong cơ sở giáo dục.
Việc phiên âm tiếng nước ngoài sẽ thay đổi trong chương trình – sách giáo khoa mới ẢNH: NGỌC DƯƠNG
Trao đổi với PV Thanh Niên, GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông mới, đồng thời cũng là giáo sư nghiên cứu về ngôn ngữ học, nêu quan điểm: “Điều này là rất cần thiết vì hiện có nhiều quy định tương đối “vênh” nhau về chính tả”. Bản thân Bộ GD-ĐT từ năm 1984 – 2003 cũng có tới 3 quyết định khác nhau về chính tả trong chương trình – sách giáo khoa (SGK). Chưa kể còn có 2 văn bản quy định của Văn phòng Chính phủ và Bộ Nội vụ về chính tả trong các văn bản hành chính…
Viết tên riêng tiếng việt ra sao ?
Dự thảo quy định về chính tả trong chương trình – SGK giáo dục phổ thông mới của Bộ GD-ĐT đặt ra những quy định cụ thể, được sử dụng thường xuyên. Ví dụ, cách viết tên người, tên địa lý VN và nước ngoài.
Cụ thể, dự thảo nêu: Đối với tên người, tên địa lý tiếng Việt và các ngôn ngữ đơn tiết: Viết hoa chữ cái đầu của mỗi âm tiết tạo thành tên. Ví dụ, Triệu Thị Trinh, Trần Quốc Tuấn… Đối với tên người, tên địa lý trong các ngôn ngữ đa tiết, viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận tạo thành tên; nếu bộ phận đó gồm nhiều âm tiết thì dùng gạch nối để nối các âm tiết. Ví dụ, Y Bih A-lê-ô, Y Blok Ê-ban, Sê-rê-pôk, E-a Đrăng… Đối với tên người, tên địa lý được cấu tạo bằng cách kết hợp danh từ riêng với bộ phận vốn không phải là danh từ riêng (danh từ chung, số từ, từ chỉ phương hướng), tùy trường hợp, được viết theo quy tắc áp dụng cho ngôn ngữ đơn tiết hoặc đa tiết. Ví dụ, Đồ Chiểu, Đề Thám, A-ma Thuột, Biển Đông, Hồ Gươm, (huyện) Chợ Mới, (huyện) Krông A-na, (vùng) Nam Trung Bộ…
Đối với tên các thiên thể (sử dụng với tư cách thuật ngữ thiên văn học, khoa học trái đất), tên các năm âm lịch, tên các dân tộc, tùy trường hợp, viết theo quy tắc áp dụng cho ngôn ngữ đơn tiết hoặc đa tiết. Ví dụ, Mặt Trời, Trái Đất, Mặt Trăng, Sao Kim; Ất Mùi, Quý Tỵ; (dân tộc) Hà Nhì, (dân tộc) Ba-na… Đối với những tên riêng còn lại: Viết hoa chữ cái đầu của mỗi từ hoặc cụm từ có tác dụng phân biệt tên riêng đó với những tên riêng khác. Ví dụ, tên các ngày lễ tết: Nguyên đán, Mbang Ka-tê; tên các cơ quan, tổ chức, đơn vị: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trường Tiểu học Trần Văn Ơn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội…; tên các văn bản quy phạm pháp luật: Luật Giáo dục, Luật Hôn nhân và Gia đình…; tên các huân chương, huy chương, danh hiệu, giải thưởng: Huân chương Lao động, Huy chương Vàng, Anh hùng Lao động, Nghệ sĩ Nhân dân, Giải thưởng Sáng tạo…; tên các ngành, các môn học, chuyên ngành khoa học: (ngành) Giáo dục, (môn) Lịch sử, (chuyên ngành) Di truyền học…
Video đang HOT
Dự thảo cũng nêu những trường hợp viết hoa những từ ngữ không phải tên riêng. Ngoài viết hoa chữ cái đầu câu, đầu dòng, còn viết hoa chữ cái đầu của tên chương, mục, bài… Viết hoa tu từ để tỏ thái độ quý trọng đối với người hoặc sự vật nhất định, có thể viết hoa chữ cái đứng đầu danh từ chung hoặc xưng hô chỉ người hoặc sự vật đó. Ví dụ, Tổ quốc, Chủ tịch, Tổng thống, Mẹ, Thầy, Người, Ông…
Phiên âm tên nước ngoài thế nào ?
Theo dự thảo, trong trường hợp tên người, tên địa lý nước ngoài được dịch nghĩa hoặc phiên âm qua âm Hán Việt thì viết hoa chữ cái đầu của mỗi âm tiết. Ví dụ: Đỗ Phủ, Lỗ Tấn, Đại Tây Dương; Ba Lan, Hy Lạp…
Các trường hợp khác sẽ phải viết nguyên dạng, nếu đó là tên viết bằng chữ Latin, ví dụ: Victor Hugo, Albert Eistein, Paris…; chuyển tự sang chữ Latin nếu đó là tên viết bằng các chữ ghi âm không phải chữ Latin, ví dụ: Volga, Moskva… trong trường hợp không chuyển tự được thì viết như cách viết trong tiếng Anh, ví dụ: Tokyo, Cleopatra…
Trong trường hợp tên riêng liên quan đến nhiều nước thì dùng tên gọi phổ biến nhất hoặc một tên gọi phù hợp với ngữ cảnh cụ thể. Trường hợp tên riêng đã quen sử dụng theo một hình thức phổ biến có tính quốc tế thì giữ cách viết thông dụng, không viết như nguyên ngữ. Ví dụ, viết tên nước có thủ đô Budapest là Hungary, không viết là Magyarország.
Tuy nhiên, dự thảo có quy định riêng đối với SGK ba lớp đầu cấp tiểu học (lớp 1, 2 và 3). SGK các lớp này sử dụng hình thức phiên âm, có gạch nối để nối các âm tiết trong cùng một bộ phận tạo thành tên; ví dụ: Tô-mát Ê-đi-xơn, Mát-xcơ-va, Tô-ky-ô… Đối với SGK lớp 4 và lớp 5, bên cạnh tên riêng được phiên âm có tên nguyên dạng hoặc chuyển tự đặt trong ngoặc đơn; ví dụ: Tô-mát Ê-đi-xơn (Thomas Edison), Mát-xcơ-va (Moskva), Pa-ri (Paris), Tô-ky-ô (Tokyo).
Theo GS Thuyết, sắp tới, khi thực hiện nghị quyết của Quốc hội cho phép thực hiện nhiều bộ hoặc nhiều cuốn SGK do các tổ chức, cá nhân đứng ra biên soạn, nếu không có quy định thống nhất về chính tả trong chương trình, SGK thì sẽ dễ dẫn tới tình trạng mỗi bộ/cuốn SGK do các nhóm tác giả khác nhau biên soạn sẽ có quy chuẩn khác nhau về chính tả, gây khó khăn, lúng túng cho các nhà trường, giáo viên và người học trong quá trình dạy và học.
Theo TNO
Chương trình giáo dục phổ thông mới: Áp dụng nhiều cách giảm tải
Cho đến thời điểm này, vấn đề giảm tải trong chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới vẫn đang được dư luận quan tâm. Những kiến thức quá hàn lâm hoặc ôm đồm trong chương trình phổ thông cũ sẽ được giảm tải thế nào? Khối lượng kiến thức được giảm ở chương trình GDPT mới so với với chương trình được cho là quá tải như hiện tại bao nhiêu?...
ảnh minh họa
Đổi mới cách dạy để giảm tải
Một số ý kiến cho rằng, số môn học trong dự thảo chương trình GDPT mới quá nhiều, có vẻ ôm đồm và tham vọng, nhiều môn học mới... Chương trình mới sẽ hiệu quả hơn nữa nếu giảm kiến thức và tôn trọng sự phát triển toàn diện của trẻ.
Liên quan đến vấn đề này, GS. Nguyễn Minh Thuyết- Tổng chủ biên chương trình GDPT mới cho biết, sẽ có nhiều cách giảm tải như: giảm bớt kiến thức khó, tổ chức lại nội dung, tích hợp, thay đổi phương pháp dạy học, đổi mới sách giáo khoa (SGK)...
Ví dụ về việc tổ chức lại nội dung, điển hình như môn Lịch sử. Chương trình Lịch sử của cả ba cấp khác với chương trình trước đây ở chỗ hầu như không thiết kế đồng tâm từ thấp lên cao. Trong đó, cấp Tiểu học chủ yếu dạy lịch sử thông qua các câu chuyện lịch sử; THCS dạy thông sử; THPT không lặp lại thông sử nữa mà có hệ thống các chủ đề và chuyên đề về lịch sử thế giới, lịch sử khu vực Đông Nam Á và lịch sử Việt Nam. Một cách tổ chức lại nội dung nữa là tích hợp.
Thay vì học 3 môn Vật lý, Hóa học, Sinh học, chúng ta xây dựng môn học mới là Khoa học tự nhiên. Chương trình môn Khoa học tự nhiên được xây dựng dựa trên sự kết hợp của 3 trục cơ bản là: Chủ đề khoa học - Các nguyên lý/khái niệm chung của khoa học - Hình thành và phát triển năng lực. Trong đó, các nguyên lý/khái niệm chung sẽ là vấn đề xuyên suốt, gắn kết các chủ đề khoa học của chương trình.
Trước băn khoăn rằng, vấn đề quá tải không phải do chương trình mà do SGK, GS. Nguyễn Minh Thuyết khẳng định nguyên nhân do cả chương trình, SGK và cách dạy. Theo đó, muốn SGK không quá tải thì trước hết phải tập huấn cho người viết sách. Người viết, người thẩm định SGK phải bám sát yêu cầu cần đạt trong chương trình. Bên cạnh đó, sắp tới không chỉ có một mà nhiều sách SGK, nên quá tải hay không cũng là một yếu tố cạnh tranh và các tác giả viết sách phải cân nhắc.
Nội dung đã được cấu trúc lại
Theo các chuyên gia, xét về tổng thể, số môn học trong dự thảo chương trình giáo dục phổ thông mới có vẻ nhiều do có thêm nhiều môn học mới, bao gồm những môn học được đặt lại tên, các môn được tích hợp (Khoa học tự nhiên, xã hội) và môn học mới được bổ sung (hoạt động trải nghiệm sáng tạo).
Tuy nhiên, nội dung đã được cấu trúc lại, giảm bớt các kiến thức khó, tích hợp và thay đổi phương pháp giảng dạy. Hơn nữa, ở cấp THPT, học sinh chỉ học 5 môn bắt buộc (trước đây phải học hết 13 môn) và tự chọn 5 môn trong 3 nhóm tự chọn theo định hướng nghề nghiệp. Do đó, có thể nói chương trình mới có sự giảm tải so với chương trình hiện hành vì học sinh chỉ học những môn học cần thiết cho phát triển nghề nghiệp. Mặt khác, khi triển khai thực hiện, các địa phương có thể chọn sách giáo khoa và tổ chức các hoạt động trải nghiệm cũng như các chuyên đề phù hợp với thực tế từng địa phương. Điều này giúp học sinh dễ tiếp cận với nội dung môn học. Đây cũng được xem là một hình thức giảm tải.
Theo GS. Võ Tòng Xuân, chúng ta hiện nay đang rất cần Bộ Chuẩn kiến thức môn học (Set of Standards of Knowledge). Bộ Chuẩn kiến thức là tài liệu quan trọng nhất mà Bộ GD&ĐT sẽ dùng để quản lý chất lượng giáo dục, đánh giá giáo viên và học sinh, chứ không phải là Chương trình, SGK. Bộ nên giao nhiệm vụ cho Ban Soạn thảo huy động thêm chuyên gia các môn học tham khảo các Bộ Chuẩn kiến thức của các nước để soạn bộ chuẩn cho Việt Nam. Ví dụ, môn Toán lớp 3 thì học gì, lớp 4 học gì, cho đến lớp 12 học gì. Có được bộ chuẩn của từng môn học, các nhà xuất bản sẽ hợp đồng các chuyên gia môn học để soạn SGK từng lớp theo đúng Bộ Chuẩn kiến thức mà Bộ đã duyệt.
Một trong những thay đổi đóng vai trò then chốt trong mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT chính là hệ thống các trường sư phạm - đây là "cỗ máy cái" đào tạo giáo viên. Vấn đề đổi mới trong đào tạo giáo viên không phải là đơn giản. Gần như tất cả các môn học sẽ đổi mới về nội dung kiến thức và phương pháp dạy học. Với trình độ giáo viên tốt nghiệp từ các trường sư phạm theo chương trình đào tạo giáo viên trước đây thì khó mà dạy nổi chương trình mới. Do đó, đổi mới cơ bản nhất của giáo dục Việt Nam chính là đổi mới trước tiên chương trình đào tạo sư phạm để đáp ứng sự đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
Về công tác chuẩn bị đội ngũ giáo viên đáp ứng chương trình GDPT mới, GS. Nguyễn Minh Thuyết cho biết, ngay từ khi bắt tay vào xây dựng chương trình mới, Bộ GD&ĐT đã hết sức quan tâm kiểm tra, điều tra đội ngũ giáo viên hiện nay về số lượng giáo viên nói chung/ số lượng từng cấp học, môn học; rà soát xem các giáo viên họ còn cần những gì về phương pháp dạy học và các mặt khác. Trong chuẩn bị giáo viên, Bộ cũng tính toán lại quy hoạch đào tạo sư phạm và bồi dưỡng dần cho giáo viên những phương pháp dạy học mới.
Theo Daidoanket.vn
Số phó giáo sư tăng vọt, vì đâu? Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước vừa công bố số lượng tân giáo sư, phó giáo sư được công nhận năm 2017. Trong đó đáng chú ý là số giáo sư, phó giáo sư tăng mạnh so với những năm trước. ảnh minh họa Cụ thể, năm 2017 tổng số ứng viên đạt phó giáo sư là 1.141 và 85 ứng...