Sẽ bổ sung 13.000 giảng viên trình độ thạc sĩ
Để nâng chuẩn trình độ giảng viên đại học theo dự thảo Luật giáo dục sẽ trình Quốc hội tại kỳ họp tới đây, Bộ GD-ĐT dự kiến bổ sung 13.000 giảng viên có trình độ thạc sĩ.
ThS Trương Thị Thanh Hoa – giảng viên Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, trong giờ dạy sinh viên năm 2 khoa tiếng Anh – Ảnh: NHƯ HÙNG
Hạn chế của đội ngũ giảng viên ĐH không chỉ ở trình độ đào tạo mà còn ở năng lực nghiên cứu khoa học, số lượng bài báo công bố trên tạp chí chuyên ngành trong nước và quốc tế, trình độ ngoại ngữ và kỹ năng sư phạm…”
Bà Nguyễn Thị Mai Hoa
Trong báo cáo giải trình, đánh giá tác động chính sách đối với việc nâng chuẩn trình độ giảng viên ĐH, Bộ GD-ĐT đưa ra lộ trình dự kiến thực hiện.
Cụ thể, hiện nay nước ta có 235 cơ sở giáo dục đại học (ĐH), nếu trung bình mỗi năm một cơ sở giáo dục ĐH đào tạo khoảng 30 thạc sĩ, mỗi khóa đào tạo hai năm thì đến năm 2021 (khoảng 2 khóa đào tạo) sẽ cơ bản đào tạo xong số giảng viên trình độ thạc sĩ cần bổ sung.
Kế hoạch này tác động như thế nào đến chất lượng giáo dục ĐH? Tuổi Trẻ đã trao đổi với bà Nguyễn Thị Mai Hoa – ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội.
Bà Hoa nói: “Thực ra, con số 13.000 giảng viên ĐH cần được chuẩn hóa trình độ thạc sĩ là con số ước tính trong báo cáo đánh giá tác động chính sách nâng chuẩn trình độ đào tạo giáo viên.
Số liệu này gồm số lượng giảng viên hiện có cần được đào tạo để đáp ứng yêu cầu của Luật giáo dục, số giảng viên về hưu cần được bổ sung, số giảng viên tăng (cơ học)…”.
* Bà đánh giá thế nào về kế hoạch chuẩn hóa trình độ thạc sĩ cho 13.000 giảng viên ĐH với giáo dục ĐH hiện nay?
- Với mục tiêu nâng chuẩn trình độ đào tạo đội ngũ giảng viên ĐH theo luật định thì không thể không thực hiện.
Phân tích từ góc độ xem xét tác động của chính sách, với 13.000 giảng viên theo giả định này, ngoài một bộ phận giảng viên được cử đi đào tạo ở nước ngoài, số lượng còn lại ở trong nước sẽ là nguồn đầu vào khá lớn cho các trường ĐH của Việt Nam.
Tuy nhiên, việc bàn đến tính khả thi của kế hoạch nâng chuẩn trình độ thạc sĩ trở lên cho 13.000 giảng viên ĐH lại là câu chuyện khác.
Video đang HOT
Nếu căn cứ mục tiêu trong Quy hoạch mạng lưới trường ĐH, CĐ giai đoạn 2006-2020, việc chuẩn hóa ấy phải thực hiện trong vòng 3 năm tới (tương ứng mỗi năm phải có trên 4.000 giảng viên hoàn thành chương trình thạc sĩ).
Đây là một thách thức lớn, nhất là với bối cảnh số cơ sở ĐH trong nước đủ điều kiện đào tạo trình độ thạc sĩ không nhiều, còn nguồn kinh phí đưa đi đào tạo ở nước ngoài đòi hỏi rất cao, ngân sách không bảo đảm.
Cũng xin nói thêm trong số học viên đã và đang được đào tạo chương trình thạc sĩ ở các cơ sở giáo dục ĐH hiện nay, số học viên sẽ là giảng viên ĐH chỉ chiếm một tỉ lệ nhất định, không phải tất cả. Điều này càng cho thấy nếu các cơ sở ĐH không có kế hoạch chi tiết và sự quyết tâm cao thì khó thực hiện được mục tiêu này trong những năm tới.
* Có ý kiến băn khoăn việc nâng chuẩn trình độ này có thể chỉ mang tính hình thức mà không góp phần nâng cao chất lượng đào tạo?
- Băn khoăn ấy không phải không có cơ sở. Ở đây có 2 vấn đề đặt ra: đào tạo ồ ạt về số lượng thạc sĩ có phải chỉ là yêu cầu về mặt hình thức; và liệu rằng yêu cầu chuẩn hóa trình độ thạc sĩ cho giảng viên có phù hợp với các trường ĐH theo định hướng ứng dụng?
Về chất lượng, phát triển đội ngũ giảng viên ĐH mà chỉ tập trung vào tiêu chí đạt trình độ thạc sĩ thì có thể sẽ rơi vào hình thức và chưa hẳn đã cải thiện được chất lượng đào tạo.
Thực tiễn cũng cho thấy hạn chế của đội ngũ giảng viên ĐH nước ta hiện nay không chỉ nằm ở trình độ đào tạo, mà còn ở một số mặt khác như: năng lực nghiên cứu khoa học còn thiếu, số lượng bài báo công bố trên tạp chí chuyên ngành trong nước và quốc tế chưa nhiều, trình độ ngoại ngữ và kỹ năng sư phạm còn yếu…
Rõ ràng, vấn đề không chỉ bảo đảm số lượng để nâng tỉ lệ đạt chuẩn, mà cần chú trọng chất lượng đào tạo đúng chuẩn. Cần có lộ trình tăng từng bước một, tránh ồ ạt, chú trọng mục tiêu số lượng mà xem nhẹ chất lượng…
* Vậy theo bà, để nâng cao chất lượng giáo dục ĐH cần phải làm thêm những gì?
- Cần hoàn thiện quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục ĐH, sắp xếp lại các trường cho phù hợp với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực đất nước, tổ chức quản lý, giám sát việc triển khai thực hiện quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục ĐH và đào tạo giáo viên.
Về nhu cầu chuẩn hóa trình độ thạc sĩ cho đội ngũ giảng viên, cũng nên xác định tỉ lệ phù hợp cho từng loại hình cơ sở giáo dục ĐH.
Theo các chuyên gia, tỉ lệ khoảng 15% giảng viên ĐH có trình độ ĐH là hợp lý. Tỉ lệ này có thể thấp hơn ở khối ĐH theo định hướng nghiên cứu và cao hơn đối với khối ĐH theo định hướng ứng dụng.
Các trường theo định hướng ứng dụng đương nhiên phải ưu tiên chú trọng đến kỹ năng nghề nghiệp của giảng viên, chứ không phải chỉ tập trung vào trình độ học vấn. Điều này đòi hỏi các trường phát huy tính tự chủ, căn cứ điều kiện thực tế để xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch chuẩn hóa đội ngũ một cách phù hợp và hiệu quả nhất.
Theo tuoitre.vn
Minh bạch thông tin để làm rõ trách nhiệm của cơ sở đào tạo
Thực hiện Kế hoạch số 225/KH-BGDĐT ngày 17/4/2018 về triển khai công tác kiểm tra các điều kiện đảm bảo chất lượng của các cơ sở GD ĐH, các trường CĐ, trung cấp có đào tạo giáo viên, các viện nghiên cứu có đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ năm 2018; Bộ GD&ĐT đã và đang tổ chức các đoàn công tác kiểm tra một số cơ sở đào tạo ở cả 3 miền: Bắc, Trung, Nam; theo danh sách của Tổ công tác lựa chọn, với tiêu chí không phân biệt các loại hình trường, không phân biệt trường đã hoặc chưa được kiểm định chất lượng GD.
Chất lượng đào tạo phụ thuộc vào chiến lược phát triển
Một trong những cơ sở đào tạo đầu tiên được Tổ công tác kiểm tra Trường ĐHSP Thái Nguyên, với Đoàn kiểm tra do PGS.TS Mai Văn Trinh - Cục trưởng Cục Quản lý Chất lượng (Bộ GD&ĐT) làm Trưởng đoàn. Tại đây, hai bên thống nhất xác nhận thông tin liên quan đến các điều kiện đảm bảo chất lượng trong việc tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh năm 2018 (tính đến thời điểm tháng 12/2017) của cơ sở đào tạo.
Theo PGS Mai Văn Trinh, Trường ĐHSP Thái Nguyên có bề dày truyền thống và nhiều đóng góp cho ngành Giáo dục và cho xã hội trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Nhất là trong bối cảnh đổi mới như hiện nay thì nhà trường càng có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, Trưởng đoàn Kiểm tra cũng có lưu ý các khoa, phòng trong đó có bộ phận tổ chức cán bộ của trường cần tham mưu cho lãnh đạo nhà trường về đào tạo đội ngũ giảng viên phải theo quy hoạch, bám sát chiến lược phát triển của trường.
Theo kinh nghiệm thực tế, giảng viên muốn được đào tạo sau đại học ở ngành mà mình thấy thuận lợi nhất, nhưng cái thuận lợi nhất của họ chưa chắc đã đóng góp tốt nhất cho chiến lược phát triển của nhà trường. Cho nên nhà trường cần có chiến lược trung hạn, dài hạn và cần tập trung vào giải quyết những vấn đề cốt lõi để phát triển ổn định, bền vững, trong đó cần tập trung hoàn thiện, nâng cấp các điều kiện đảm bảo chất lượng.
Nhận xét về quy mô đào tạo, PGS Mai Văn Trinh cho rằng, so với mức quy định tối thiểu thì tiềm lực hiện nay của trường đang vượt khá xa, có thể đáp ứng tốt các yêu cầu đào tạo. Dẫu vậy, nhà trường vẫn phải đảm bảo sự ổn định và phát triển, chăm lo đời sống cho đội ngũ cán bộ, giảng viên. Đây cũng thực sự là thách thức của nhà trường.
"Nhà trường phải làm thế nào để đảm bảo tài chính, chăm lo cho đời sống cho cán bộ, giảng viên? Mặt khác nhà trường cũng có thể tự tin khẳng định với xã hội rằng, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên không vì mục đích tăng quy mô để tuyển sinh một cách tùy tiện, mà luôn coi trọng chất lượng" - PGS Mai Văn Trinh nêu quan điểm, đồng thời ghi nhận sự nỗ lực của nhà trường trong công tác đào tạo. Hiện nhà trường đang có sự chuyển hướng sang bồi dưỡng đội ngũ giáo viên hiện có. Đây là trách nhiệm của nhà trường với ngành Giáo dục nói riêng và trách nhiệm với xã hội nói chung.
Về vấn đề sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp, PGS Mai Văn Trinh cho rằng, cách làm của Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên chưa đồng bộ. PGS gợi ý, cần có sự đầu tư và lâu dài cũng nên xây dựng cơ sở dữ liệu về sinh viên. Ngay từ khi các em nhập học, nhà trường đã có cơ sở dữ liệu quản lý sinh viên. Cơ sở dữ liệu này phải được cập nhật thường xuyên. Tất nhiên, cần phải có sự chuyển biến, thay đổi trong nhận thức cả phía nhà trường và sinh viên. Đặc biệt tuyên truyền để sinh viên nhận thức được rằng, việc trả lời phiếu khảo sát là trách nhiệm của mình với nhà trường và với thế hệ sau. Theo đó, nhà trường có thể sử dụng lợi thế của công nghệ thông tin bằng cách sử dụng phần mềm chạy trên nền tảng web để xử lý việc này.
Đặt vấn đề về khởi nghiệp và khả năng tự tạo việc làm đối với ngành Sư phạm, PGS Mai Văn Trinh mong muốn, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên cần nghiên cứu, đầu tư và tiên phong về vấn đề này trong khối các trường sư phạm. Nếu nhà trường giải quyết được việc này thì quả thật sẽ đóng góp rất lớn cho ngành và cho xã hội.
Làm tốt hơn công tác khảo sát việc làm của SV sau tốt nghiệp
Tại Trường ĐH Bách khoa (ĐHQG TPHCM), dẫn đầu Đoàn kiểm tra của Bộ GD&ĐT là TS Trần Văn Kiên - Phó Cục trưởng Cục Quản lý Chất lượng. Đoàn công tác đã rà soát thực tế về đội ngũ
giảng viên, cơ sở vật chất, đây là các điều kiện căn bản để xác định chỉ tiêu tuyển sinh của nhà trường. Bên cạnh đó, Đoàn cũng kiểm tra công tác khảo sát tình hình việc làm của SV sau tốt nghiệp, cũng như ghi nhận các khó khăn của nhà trường trong thực hiện nội dung này.
Đánh giá về công tác đảm bảo chất lượng của trường, TS Trần Văn Kiên cho rằng, nhà trường đã rất quan tâm tới chất lượng đào tạo, nhà trường đã đầu tư rất tốt cho công tác kiểm định chất lượng cấp cơ sở GD cũng như cấp chương trình đào tạo theo các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực. Bên cạnh việc đầu tư cho kiểm định chất lượng cũng như chuẩn hóa các chương trình đào tạo, nhà trường cũng rất quan tâm tới việc phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên cơ hữu của trường. Tại thời điểm kiểm tra, trường có 9 GS, 101 PGS, 268 TS và 280 ThS cơ hữu. Đây là con số rất ấn tượng trên quy mô tuyển sinh ổn định của nhà trường trong nhiều năm qua.
Thực tế, xem xét tỉ lệ SV giảng viên quy đổi của trường cũng cho thấy rõ nhà trường đã rất chú trọng công tác đảm bảo chất lượng khi cả ba khối ngành đang đào tạo là khối ngành IV, V và VII đều có tỉ lệ đáp ứng tốt hơn so với quy định của Bộ GD&ĐT...
Bên cạnh các kết quả đã đạt được, Đoàn kiểm tra cũng chỉ ra công tác khảo sát tình hình việc làm SV sau tốt nghiệp hiện gặp một số khó khăn, mặc dù nhà trường rất quan tâm đến công tác này. Thông tin từ nhà trường cho biết đã xác định việc thống kê việc làm SV tốt nghiệp là rất quan trọng và được thực hiện hàng năm, bắt đầu từ năm 2008.
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, trường gặp một số khó khăn do số lượng SV tốt nghiệp có phản hồi không cao, chưa đáp ứng hướng dẫn theo Công văn số 2919/BGDĐT-GDĐH ngày 10/7/2017 của Bộ GD&ĐT. Đoàn kiểm tra đã đề nghị nhà trường nghiên cứu, có phương pháp khắc phục các khó khăn, thực hiện công tác khảo sát tình hình việc làm của SV tốt nghiệp đúng quy định, đảm bảo độ tin cậy.
Xác định chỉ tiêu tuyển sinh dựa trên năng lực đào tạo
Tại Trường ĐH Công đoàn, sau khi triển khai các nội dung kiểm tra, Đoàn công tác do PGS.TS Mai Văn Trinh làm Trưởng đoàn, đã ghi nhận: Năm 2018, với tổng quy mô dự kiến là 7.573 SV trình độ ĐH hệ chính quy đối với khối ngành III và khối ngành VII trường đang đào tạo, trong đó chỉ tiêu tuyển sinh năm 2018 nhà trường tự xác định là 2.000. Với quy mô này, diện tích sàn xây dựng của trường phục vụ đào tạo đạt bình quân 4,12 m2/SV, đáp ứng tốt hơn mức tối thiểu theo quy định 2,8 m2/SV (tại Thông tư số 06/TT-BGDĐT).
Tỷ lệ SV/giảng viên quy đổi đạt 25 SV/giảng viên quy đổi (so với quy định tối đa là 25 SV/giảng viên quy đổi), như vậy đội ngũ giảng viên nhà trường đáp ứng năng lực đào tạo theo quy định.
Tỷ lệ SV tốt nghiệp ra trường có việc làm trong thời gian 12 tháng khá cao. Cụ thể, năm 2016, tỉ lệ này đạt trên 90% (1.010/1.118 SV được hỏi và phản hồi có việc làm sau khi tốt nghiệp ra trường).
Trên cơ sở báo cáo của nhà trường và thực tế kiểm tra tại trường, Đoàn kiểm tra kết luận: Chỉ tiêu tuyển sinh trong Đề án tuyển sinh năm 2018 của nhà trường cơ bản đáp ứng quy định, phù hợp với năng lực đào tạo của nhà trường.
Kết luận về kết quả kiểm tra, PGS.TS Mai Văn Trinh đánh giá cao sự nghiêm túc và trách nhiệm của Trường ĐH Công đoàn trong việc tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh dựa trên năng lực đào tạo của nhà trường trong Đề án tuyển sinh năm 2018. Những thông tin về các điều kiện đảm bảo chất lượng của Trường Đại học Công đoàn được công khai trong Đề án tuyển sinh năm 2018 đã cho thấy tinh thần trách nhiệm của trường trong chiến lược phát triển dài hạn của mình.
Đó cũng là hướng đi để khẳng định uy tín, thương hiệu cũng như chất lượng đào tạo của nhà trường, tạo điều kiên cho thí sinh, gia đình và xã hội giám sát và lựa chọn đăng ký vào học các ngành/chuyên ngành đào tạo của trường, đồng thời cũng tạo điều kiện rất tốt cho các cơ quan quản lý trong việc theo dõi, kiểm tra, giám sát các hoạt động đào tạo của nhà trường.
Mục đích đợt kiểm tra nhằm thực hiện kiểm tra các điều kiện đảm bảo chất lượng của các cơ sở GD ĐH, các trường CĐ, trung cấp có đào tạo giáo viên, các viện nghiên cứu có đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ để xác định năng lực đào tạo thực tế của các trường nhằm công khai, minh bạch các điều kiện đảm bảo chất lượng chủ yếu của trường trước kỳ tuyển sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho thí sinh và gia đình trong việc lựa chọn trường để đăng ký theo học và cung cấp thông tin cho xã hội biết và giám sát.
PV
Theo giaoducthoidai.vn
"Giáo sư không được làm hiệu trưởng phải trở về Mỹ": Sửa ngay Luật giáo dục đại học Từ câu chuyện Giáo sư Trương Nguyện Thành không đủ tiêu chuẩn làm hiệu trưởng Đại học Hoa Sen và quay trở lại Mỹ, lãnh đạo Bộ GD&ĐT cho rằng, dự thảo Luật giáo dục đại học đang sửa để thay đổi cách bổ nhiệm hiệu trưởng hiện nay. Vậy Luật giáo dục đại học sẽ sửa đổi như thế nào cho phù...