“Sang năm tới Hoàng Sa” – nhưng bằng cách nào?
Muốn “Sang năm tới Hoàng Sa”, Việt Nam phải trở nên giàu mạnh thì đúng rồi, nhưng còn phải chờ cơ hội, và biết nắm được nó, một cách quyết đoán.
Chưa có tiền lệ
Nhà thơ Thái Bá Tân có bài thơ “ Sang năm tới Hoàng Sa”, đại khái nhìn về người Do Thái không có Tổ Quốc tới hàng nghìn năm, nhưng năm nào cũng hẹn nhau: “Sang năm tới Jerusalem” mong ước cháy bỏng của người Do Thái được về quê hương với đúng nghĩa là Tổ Quốc. Đó cũng là mong ước cháy bỏng của nhà thơ hướng tới một phần lãnh thổ của Tổ Quốc bị chiếm đóng.
Chúng ta đồng ý với tình cảm của nhà thơ, nhưng tình cảm là tình cảm, chúng ta hãy thử tỉnh táo, bình tĩnh và tìm câu trả lời khách quan cho câu hỏi “Sang năm tới Hoàng Sa” – nhưng bằng cách nào?
Chúng ta đều đã biết rằng, hệ thống chuẩn mực, hay chính xác, pháp luật quốc tế về vấn biển cả và đại dương, hiện chỉ có một văn kiện cao nhất, là “Công ước về Luật biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc”. Phần XV của Công ước chính là những nguyên tắc cơ bản của việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền của các quốc gia đối với biển cả và đại dương và tất cả các yếu tố cấu thành nên nó, tức là với các đảo và quần đảo.
Trên thực tế, Trung Quốc không những chỉ chiếm quần đảo Hoàng Sa, mà còn thành lập cái gọi là thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam, bao gồm cả quần đảo Trường Sa (của Việt Nam). Đây thuần túy là một hành động hành chính đơn phương mang tính chính trị để gián tiếp tuyên bố chủ quyền, vì Hoàng Sa đã từ lâu là Huyện đảo thuộc thành phố Đà Nẵng của Việt Nam.
Tàu TQ phun vòi rồng vào tàu VN. Ảnh: Cảnh sát biển Việt Nam
Sau sự kiện giàn khoan Hải Dương 981, báo chí Việt Nam đã đăng những bài viết học thuật liên quan đến “thời điểm Việt Nam khởi kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế” – mặc dù Công ước về Luật biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc có quy định việc các quốc gia đưa tranh chấp ra giải quyết theo trình tự khởi kiện: Tòa án quốc tế về Luật biển được thành lập theo đúng Phụ lục VII của Công ước; Toà án quốc tế hoặc một tòa trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII của Công ước.
Tuy nhiên, việc khởi kiện ra Tòa án quốc tế để đòi cả một quần đảo là điều chưa có tiền lệ trong lịch sử cận đại và hiện đại của Liên Hiệp Quốc – nhưng cũng không có nghĩa là không thể. Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa của Việt Nam trong lúc Việt Nam đang có chiến tranh – và hiện nay các thư tịch cổ đều cho thấy, việc tuyên bố chủ quyền của các quốc gia xung quanh quần đảo từ thời đây là một quần đảo hoang giữa biển khơi, thì Việt Nam là quốc gia có đầy đủ nhất đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tất nhiên, chỉ những thư tịch cổ đó là chưa đủ, cần phải thu thập thêm nhiều chứng cứ nữa; điều này thì các nhà sử học, khảo cổ Việt Nam đã đang làm rất tốt và trong tương lai chắc cũng sẽ còn tìm thấy được nhiều chứng cứ xác thực nữa về chủ quyền của đất nước với Hoàng Sa. Dù chúng ta cũng có thể đoán trước TQ có thể sẽ viện dẫn những lý lẽ gì.
Như vậy, việc khởi kiện ra Tòa án quốc tế để Quốc tế có thể công nhận chủ quyền không thể bàn cãi của Việt Nam đối với Hoàng Sa, là hoàn toàn có thể, nhưng nó đòi hỏi phải tất cả một dự án rất lớn, có sự tham gia của nhiều cấp, ngành, nhiều giới nghiên cứu liên quan.
Những điều phải tính đến
Theo thiển ý của tôi, điều này là cần thiết, nhưng đã đánh, là phải thắng. Chúng ta nói chúng ta có lẽ phải, cái đó nhìn thấy dễ dàng, nhưng thế thôi chưa đủ, phải có kế hoạch hành động cụ thể và khi khởi kiện, phải có kỹ thuật tốt và chuyên nghiệp.
Cứ cho là chúng ta sẽ có được một phán quyết thắng lợi từ phía Tòa án quốc tế – tuyên bố hẳn hoi là “Hoàng Sa là của Việt Nam, Trung Quốc phải trả lại cho Việt Nam” – nhưng từ thắng kiện đến việc thực hiện được phán quyết đó trong thực tế chắc chắn là quãng đường dài.
Đến nay, phân tích của hầu hết các học giả, các nhà kinh tế, doanh nhân, v.v… đều đưa ra giải pháp tăng cường nội lực, nghĩa là đất nước ta phải mạnh lên, cố sức làm giàu, để dân giàu nước mạnh… Như trường hợp Israel chỉ có mấy triệu dân, chưa bằng 1/10 VN, nhưng không ai dám làm gì họ.
Nhưng ta mạnh lên, thì họ cũng mạnh lên, và xuất phát điểm của ta và Trung Quốc là khác nhau. Nước ta vẫn là một nước yếu kém về kinh tế, ngay trong Đông Nam Á thôi, chưa nói đến những khu vực rộng lớn hơn, còn Trung Quốc, đang là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Và những bất ổn tiềm tàng trong đất nước Trung Quốc, giả như nó bùng nổ ra thành bất kỳ một sự kiện như thế nào, theo kịch bản gì… thì hiệu ứng đôminô sẽ lan ra toàn quốc.
Điều đó có nghĩa là khi đó, Trung Quốc trước mắt sẽ suy yếu trong một thời gian, dài hay ngắn chúng ta chưa thể đoán được, nhưng chắc chắn sẽ suy yếu. Người Trung Quốc có những triết thuyết mà cả thế giới phải học hỏi – hẳn sẽ tự hiểu rất rõ, rằng không có gì là tồn tại vĩnh viễn, nhất là với một đế chế tiềm tàng rủi ro nhiều như nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hiện nay. Nếu như trong thời gian này, Việt Nam ta không kịp thay đổi, chuyển mình để mạnh lên, thì sẽ mất cơ hội.
Bên cạnh đó, còn một vấn đề khác. Nhìn lại lịch sử, quần đảo Kuril, mà Nhật Bản gọi là Chishima hiện nay có những bằng chứng người Nhật đã có lịch sử khai phá sinh sống trên quần đảo này từ trước người Nga. Năm 1875 theo Hiệp ước Sankt-Peterburg, Nga và Nhật Bản nhất trí rằng Nhật Bản sẽ từ bỏ tất cả các chủ quyền ở Sakhalin để đổi lấy việc với Nga từ bỏ tất cả các quyền đối với quần đảo Kuril.
Video đang HOT
Vị trí quần đảoKuril. Ảnh: Wikipedia
Sau chiến tranh Nga – Nhật năm 1905 với sự thất bại của nước Nga Sa hoàng, người Nhật thắng lợi trong việc lấy được quần đảo và thậm chí còn được thêm nửa phía nam đảo Sakhalin, và chỉ sau Chiến tranh thế giới lần thứ Hai, Liên Xô (cũ) mới lấy lại quần đảo đó thông qua các thỏa thuận trong khối các nước Đồng Minh tại thỏa thuận Yanta (2/1945) Tuyên bố Potsdam (07/ 1945) và Hiệp ước San Francisco (9/1951). Những thỏa thuận này vì có nhiều điểm không rõ ràng nên chúng tiềm tàng phát sinh tranh chấp giữa Liên Xô (cũ) với Nhật Bản và bây giờ là giữa Nga và Nhật Bản.
Từ một số quan điểm học thuật, thì việc Liên Xô lấy quần đảo Kuril từ chủ quyền của Nhật Bản, là khó có thể có đủ căn cứ pháp lý, vì những gì mà Quân phiệt Nhật gây ra trong Chiến tranh thế giới thứ hai, thì hậu quả nặng nề nhất là trên đất nước Trung Quốc, Triều Tiên và nhiều nước khác, trong đó có cả Việt Nam. Với Liên Xô – Nga, người ta chưa cho rằng đã đến mức như vậy – nhưng rõ ràng việc chuyển một vùng lãnh thổ của một quốc gia sang cho một quốc gia khác, thường gắn liền với một cuộc chiến tranh. Do đó mà đến nay, vấn đề quần đảo Kuril luôn luôn là một vấn đề tranh chấp giữa Nhật Bản và Liên Bang Nga.
Tại sao tôi lại nhắc đến vấn đề quần đảo Kuril ở đây? Vì logic tôi muốn nói tới, là phải có một biến cố cần thiết làm tiền đề cho dịch chuyển lãnh thổ. Nhìn lại lịch sử, thì việc dịch chuyển chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ nào đó, thường là gắn với những phương án “không hòa bình”.
“Kim cương còn quý hơn vàng”
Quay lại câu chuyện Hoàng Sa, chúng ta đã lướt qua khả năng khởi kiện, thắng về pháp lý, không có nghĩa là sẽ đòi được trên thực tế. Tôi cũng đã lướt qua khả năng Trung Quốc sẽ sa vào hỗn loạn và tan rã, tất nhiên, Trung Quốc không phải là nhà nước liên bang như Liên Xô để tan rã theo đúng kịch bản như thế, nhưng không có nghĩa là Trung Quốc sẽ tiếp tục lớn mạnh – ai cũng có những vấn đề của bản thân mình.
Khi tôi viết bài viết này là vào ngày 11/5/2014, đến hôm qua thì thấy trên truyền thông có đưa tin về phát biểu quan trọng tại một hội thảo tại Bộ Khoa học và Công nghệ sáng 17/5, tôi xin trích lại một đoạn theo VnEconomy đưa:
“Trung Quốc đã dùng vũ lực để chiếm Hoàng Sa và chúng ta sẽ đòi lại, đời chúng ta chưa đòi được thì đời con đời cháu chúng ta sẽ đòi cho bằng được”.
Trước câu hỏi của truyền thông Việt Nam về việc liệu Việt Nam có kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế hay không, câu trả lời là: “trước hết Việt Nam luôn muốn dùng biện pháp hòa bình”.
“Trong giải pháp hòa bình có nhiều giải pháp nhưng trước hết có đường ngoại giao. Có người nói kiện ra tòa cũng là hòa bình, là hoàn toàn đúng. Cùng cực mà không thể nói chuyện với nhau, thì mới mang nhau ra tòa”.
“Tôi có thể khẳng định Đảng và Nhà nước đều đã tính toán đến mọi phương án, kể cả phương án “không hòa bình”.
Trong lúc Biển Đông căng nhất, Tổng tham mưu trưởng Quân Giải phóng nhân dân TQ Phòng Phong Huy đi thăm Hoa Kỳ. Ảnh: CNN
Làm thế nào để “đa phương hóa” câu chuyện biển Đông lần này, là một việc rất khó, nhưng với những hành động trong những ngày vừa qua của Chính phủ, tôi tin Chính phủ sẽ chiếm được nhiều lòng tin của nhân dân hơn.
Sự kiện giàn khoan “Hải Dương 981″ lần này chắc hẳn nằm trong kế hoạch rất có chủ đích của Trung Quốc – vì trong lúc Biển Đông căng nhất thì Tổng tham mưu trưởng Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc Phòng Phong Huy đi thăm Hoa Kỳ. Tại một cuộc họp báo tại đây, phát biểu ngang ngược: “Chúng tôi không gây rắc rối, nhưng cũng không ngại rắc rối!”
Việt Nam phải trở nên giàu mạnh thì đúng rồi, nhưng muốn “Sang năm tới Hoàng Sa”, còn phải chờ cơ hội, và biết nắm được nó, một cách quyết đoán. Xin kết luận bằng một câu trả lời đanh thép trong sự kiện Hội thảo 17.5: “Vàng rất quý, nhưng kim cương còn quý hơn vàng. Tôi cho rằng, chúng ta phải luôn ghi nhớ lời Bác Hồ đã dạy, quý nhất là bốn chữ “độc lập, tự do”.”
Phúc Lai
Theo_VietNamNet
Chính khách Việt và hình ảnh trước công chúng
Chế độ bầu cử ở nước ta là Đảng cử, dân bầu. Chính khách của ta dễ trúng cử hơn. Nhưng như thế không có nghĩa ta đứng ra ngoài dòng chảy chung.
LTS: Dịch sởi bùng phát, hoãn đăng cai ASIAD, lùi đề án giáo dục 34 nghìn tỷ.... là hàng loạt sự việc nóng dồn dập xảy ra thời gian qua. Tác động xã hội của những sự việc trên đã thu hút sự quan tâm của người dân, và đặc biệt là cách hành xử, phát ngôn trước dư luận của những người đứng đầu. Các "chính khách Việt" đang hành xử ra sao trước những điểm nóng dư luận? Cùng Tuần Việt Nam phân tích qua góc nhìn của TS Nguyễn Sĩ Dũng và nhà báo Lê Quốc Vinh.
Chưa bao giờ sức ép công luận lớn như hiện nay
Từ đầu năm 2014 đến nay, nhiều quan chức chính phủ đã có những phát ngôn khiến dư luận dậy sóng. Qua đó có thể thấy kỹ năng làm chủ thông tin, tạo dựng hình ảnh đẹp trước truyền thông và công chúng của nhiều chính khách Việt Nam còn thiếu nhất quán. Trong khi lẽ ra việc chính khách tạo dựng hình ảnh, củng cố niềm tin với công chúng là đương nhiên. Ông nhìn nhận thế nào?
Ông Nguyễn Sĩ Dũng: Với chính khách phương Tây, các kỹ năng quyết định trực tiếp đến việc người dân có bỏ phiếu cho họ hay không.
Nếu không có hình ảnh công chúng tốt, họ sẽ không bao giờ trúng cử. Họ buộc lòng phải chú ý đến việc xây dựng hình ảnh công chúng: xuất hiện như thế nào, ăn mặc, phong thái ra sao đều phải được cân nhắc kỹ lưỡng.
Các chính khách ở ta không phải chịu kiểu áp lực như vậy. Chế độ bầu cử ở nước ta là Đảng cử, dân bầu. Đảng giới thiệu các ứng cử viên và người dân bày tỏ nguyện vọng của mình trên cơ sở sự giới thiệu đó, nên chính khách của ta dễ trúng cử hơn. Nhưng như thế không có nghĩa ta đứng ra ngoài dòng chảy chung của nhân loại. Chưa bao giờ công luận lại có sức tác động lớn và gây sức ép đến chính trường và hành động của các chính khách như hiện nay.
Ông Lê Quốc Vinh: Có thể đó là do văn hoá. Hầu hết chính khách của ta đều nghĩ rằng mình phải khiêm tốn, phải kín đáo, phải hạn chế việc xuất hiện trước công chúng. Họ không dám thoát ra khỏi mô hình tư duy cũ đó.
Hơn nữa, ở các nước khác, chính khách đều có một thư ký báo chí đặc trách vấn đề truyền thông cho riêng họ, thậm chí với những chính khách có vị trí cao, còn cần cả trợ lý riêng về mặt hình ảnh cá nhân mỗi khi xuất hiện trước công chúng. Người trợ lý có trách nhiệm giúp đỡ chính khách về trang phục, phong thái, trợ giúp họ những thông tin cơ bản về sự kiện và tư vấn cho họ cả trong vấn đề phát ngôn.
Các chính khách và các cơ quan công quyền của ta nhìn chung đều rất coi thường vấn đề này. Khi một chính sách được đưa ra, họ không quan tâm đến việc người dân sẽ phản ứng thế nào, chỉ đến khi sự phản ứng xuất hiện, họ mới tìm cách giải quyết. Cách làm của các cơ quan công quyền của ta hiện nay làm người dân có cảm giác các nhà lãnh đạo muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, không để ý đến ý kiến của số đông dân chúng.
Ông Nguyễn Sĩ Dũng: Ảnh: Lan Hương
Điều gì xảy ra khi chính khách và công chúng không tìm được tiếng nói chung, cụ thể gần đây nhất một cuộc khủng hoảng truyền thông đã xảy ra với dịch sởi?
Ông Lê Quốc Vinh: Khi người dân mất niềm tin ở cơ quan công quyền, phản ứng với các chính sách mới, giận dữ với cá nhân các chính khách thực chất chính là khủng hoảng truyền thông; phải được giải quyết, trốn tránh là tối kỵ. Một số bộ ngành vừa qua đã để một cuộc khủng hoảng kéo dài và ngày càng lan rộng. Từ vấn đề viện phí, quá tải bệnh viện, chuyện y đức, đến chất lượng vaccine... Những cuộc khủng hoảng này do không được xử lý rốt ráo đã để lại hậu quả từ chuyện này sang chuyện khác, hiện hữu thành thiệt hại cho cả xã hội.
Trong đợt dịch sởi vừa qua, người dân đã hoang mang không biết tin theo ai. Phản ứng chậm chạp của cơ quan chức năng cùng với việc thông tin đưa ra thiếu định hướng là nguyên nhân của sự hỗn loạn đó.
Ông Nguyễn Sĩ Dũng: Bộ Y tế tổn thất về hình ảnh trước công chúng, người dân tổn thất về sức khoẻ. Hơn 100 trẻ thiệt mạng; không khí hoang mang bao trùm. Những ông bố bà mẹ mua tất cả mọi thứ mà họ nghĩ có thể chống được sởi và chữa được sởi và tạo ra sự khan hiếm đột ngột về vaccine. Đó là tổn hại nặng nề nhất.
Lẽ ra trong tình huống này, Bộ Y tế phải họp báo hàng ngày, cung cấp thông tin cần thiết cho báo chí. Vụ máy bay MH370 rơi, Malaysia chịu rất nhiều chỉ trích vì thái độ che giấu thông tin, dù họ tổ chức họp báo mỗi ngày. Bộ Y tế thậm chí đã không tổ chức họp báo.
Có lẽ chúng ta đang nói đến trách nhiệm; sự thiếu chuyên nghiệp của bộ phận tư vấn truyền thông cho các chính khách?
Ông Lê Quốc Vinh: Tôi không dám nói họ không chuyên nghiệp. Chính xác hơn thì là phương pháp luận của họ chưa đúng, hiểu biết của họ về vai trò của người làm tư vấn truyền thông chưa đầy đủ. Có những người chỉ hiểu truyền thông là làm cho mình "sạch sẽ" nhất trên báo chí. Nhưng những người làm truyền thông chuyên nghiệp sẽ cố gắng để báo chí hiểu chính xác những việc mình làm. Tiếp cận truyền thông một cách chủ động hay bị động sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến hình ảnh mà chúng ta định xây dựng.
Ông Nguyễn Sĩ Dũng: Hiện tại các cơ quan Bộ đều có bộ phận truyền thông riêng. Nhưng sự quan tâm của lãnh đạo các Bộ cho bộ phận này và tính chuyên nghiệp của nó là vấn đề cần phải xem lại. Đợt dịch sởi cho thấy một cuộc khủng hoảng truyền thông nghiêm trọng. Đúng ra Bộ Y tế cần một bộ phận truyền thông chuyên nghiệp có trách nhiệm tư vấn giúp Bộ trưởng trong việc cung cấp thông tin, đưa ra thông điệp để nó có thể đến với công chúng.
Ông Lê Quốc Vinh. Ảnh: Hương Lan
Dùng truyền thông để đánh bóng là rất sai lầm
Ngược lại, dư luận đã có cái nhìn khác nhau về Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam và Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến trong dịch sởi; và Phó Thủ tướng Đam với Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh trong vấn đề đăng cai ASIAD. Điều gì đã khiến các chính khách nhận được những phản ứng khác biệt từ dư luận?
Ông Nguyễn Sĩ Dũng: PTT Vũ Đức Đam là người được đào tạo rất cơ bản. Ông rất hiểu về truyền thông. Một khía cạnh khác cũng phải nói tới có thể ông là một chính khách có tâm. Điều này rất quan trọng. Người dân cảm nhận được ngay. Nếu dùng truyền thông để tạo ra những thay đổi đối với các vấn đề xã hội thì được, còn chỉ để đánh bóng bản thân sẽ là chuyện rất sai lầm. Trên hết cả kỹ năng phải xuất phát từ nền tảng thật là trách nhiệm, là tấm lòng thật sự với nhân dân.
Ông Lê Quốc Vinh: Đám đông luôn có tâm lý hướng theo những luồng dư luận trùng với suy nghĩ và quyền lợi của họ, chống lại những luồng dư luận trái chiều. Khi đám đông thấy rằng túi tiền của mình bị ảnh hưởng, bị tiêu xài không đúng cách, thì bất cứ một người nào lên tiếng yêu cầu chấm dứt lãng phí tiền của dân đương nhiên sẽ được người ta ủng hộ. PTT Vũ Đức Đam nói điều mà người dân đang mong chờ thì sự ủng hộ dành cho ông là tất yếu.
Bộ trưởng Đinh La Thăng cũng làm được một điều rất hay: khi ông xuất hiện ở điểm nóng nào, thì người dân sẽ cho rằng đó là hành động thật, vì bất cứ chỗ nào có điểm nóng xuất hiện, là sẽ thấy Bộ trưởng Bộ GTVT xuất hiện.
Ông Lê Quốc Vinh nói chính khách của chúng ta không có kỹ năng xây dựng hình ảnh là do vấn đề văn hoá, nhưng mấy chục năm trước Bác Hồ và những người cách mạng thế hệ đấy đã làm rất tốt công tác dân vận. Thời đó, không ai dạy họ các kỹ năng về truyền thông, xây dựng hình ảnh, tại sao họ làm tốt?
Ông Nguyễn Sĩ Dũng: Dân vận thực chất cũng là truyền thông. Truyền thông ở giai đoạn trước rất khác so với bây giờ. Người lãnh đạo ngày xưa cũng có hình ảnh công chúng rất tốt. Họ cống hiến, hi sinh - tuyệt đối vô tư, vì một mục tiêu cao đẹp. Vì thế thông điệp của người lãnh đạo ngày ấy đến với công chúng rất nhanh. Đó là cái bây giờ nhiều chính khách không có được hình ảnh công chúng như vậy và cũng không có ý thức làm việc đó.
Một lý do thứ hai là thời nay, truyền thông bây giờ khác xưa rất nhiều. Ngoài báo chí còn có sự tham gia của các mạng xã hội, mà ở đó, chúng ta không thể kiểm soát được đạo đức, ý đồ của người truyền tin cũng như tính chủ quan cá nhân của người tiếp nhận thông tin. Đó là lý do các chính khách phải có kỹ năng đối phó với những vấn đề đó.
Ông Lê Quốc Vinh: Ngày đó một người đứng đầu đất nước, ăn mặc như Bác Hồ, cách nói chuyện và phong thái như Bác Hồ là phù hợp và rất cần thiết.
Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng là cựu du học sinh tại Liên Xô. Ông hiện là Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. Nhà báo Lê Quốc Vinh là Chủ tịch HĐQT, CEO Le Group, một tập đoàn truyền thông, quảng cáo, tổ chức sự kiện, mua bán bản quyền và phát triển các chương trình truyền hình.
Hơn nữa, Bác Hồ là một nhà trí thức, đã bôn ba học hỏi nhiều từ phương Tây. Phong thái đó sẽ ảnh hưởng đến Bác Hồ và những chính khách - những trí thức Tây học khác. Chắc nhiều người sẽ lật ngược vấn đề tại sao nhiều quan chức bây giờ cũng là trí thức Tây học mà không làm được như vậy, đó là bởi họ không để ý đến điều đó.
Nhiều chính khách có thể có phong thái rất đàng hoàng, rất chuẩn mực ở các cuộc lễ tân, nhưng tại nơi làm việc rất úi xùi. Người ngoài sẽ nghĩ ông lịch lãm. Còn cán bộ dưới quyền ông ấy sẽ không thấy điều đó. Vô hình chung hình ảnh ông ta sẽ trở nên giả dối, nửa vời. Anh chỉ có thể thoải mái ở giữa những người bạn. Còn khi là chính khách, anh sẽ phải hi sinh.
(Còn nữa)
Lan Hương(Thực hiện)
Theo VNN
Lật lại bí ẩn thảm khốc 37 năm của Malaysia Airlines Chuyến bay MH370 mất tích đã gợi lại ký ức đau đớn cho những người đang chịu một thảm kịch khác của Malaysia Airlines khi họ phải chờ đợi câu trả lời hơn 37 năm, CNN đưa tin. Năm 1977, chuyến bay MH653 bị không tặc khi trên đường từ Penang tới Kuala Lumpur. Chiếc Boeing 737-200 đâm xuống một đầm lầy toàn...