Sản phẩm cách mạng cuối cùng của Steve Jobs mới chỉ bước sang năm tuổi đời thứ 13, sao bạn đã vội chê Apple mất hết sức sáng tạo?
10 năm không có Jobs, Apple của Tim Cook đã thiết lập được một kỳ tích: trở thành gã khổng lồ công nghệ đầu tiên cán mốc 2 nghìn tỷ USD trị giá vốn hóa. Cùng lúc, những lời chỉ trích “thiếu sáng tạo” vẫn bủa vây Apple.
Nếu Steve Jobs còn sống, liệu ông đã có thể tạo lập cuộc cách mạng tiếp theo?
Không nhiều người nhận ra điểm đặc biệt nhất của iPhone 12: đây sẽ là thế hệ iPhone thứ 10 ra mắt mà không có bàn tay dìu dắt của nhà sáng lập Steve Jobs. Trước khi qua đời vì căn bệnh ung thư, Jobs chỉ kịp ra mắt iPhone 4, đánh dấu một bước tiến lớn về thiết kế và hiệu năng của chiếc smartphone mác Táo. Đầu năm 2011, ông nghỉ việc để điều trị và đến tháng 11 thì qua đời, đúng 1 ngày sau khi Tim Cook vén màn iPhone 4s.
10 năm không có Steve Jobs, dù đã chạm tới cột mốc 2 nghìn tỷ USD, Apple vẫn thường xuyên bị chê bai thiếu sức sáng tạo. Quả thật, 10 năm qua Apple đã không thể tạo ra một cuộc cách mạng ngang tầm với iPad hay iPod chứ đừng nói tới iPhone. Những sản phẩm mới như Apple Watch, AirPods không thể thay thế được vai trò của smartphone. Thậm chí, Apple còn để Amazon vượt mặt trong cuộc chiến loa thông minh, biến HomePods trở thành một ngoại lệ hiếm hoi: lần đầu tiên trong nhiều năm, Apple không phải là kẻ đi đầu trong công cuộc gây dựng một thị trường mới.
Đã 10 năm trôi qua kể từ khi Steve Jobs vén màn chiếc iPhone cuối cùng trong cuộc đời ông.
Nhưng nói như vậy là có phần không công bằng với Apple. Đến giờ, chiếc “modern smartphone” của Steve Jobs mới chỉ tròn 13 năm tuổi đời mà thôi.
Cuộc cách mạng đầu tiên: Từ Apple II đến MacBook Air
Tuổi đời của iPhone liên quan thế nào đến sức sáng tạo của Apple? Nếu nhìn nhận một cách thực sự khắt khe, Steve Jobs thực chất chỉ thực hiện 2 cuộc cách mạng trong cả cuộc đời: cách mạng điện toán cá nhân và cách mạng điện toán di động.
Hãy cùng đi ngược lại lịch sử công ty có logo Táo Cắn Dở. Năm 1977, Steve Jobs và người bạn Steve Wozniak có thành công đầu tiên qua Apple II, một trong những cỗ máy tiên phong cho khái niệm “điện toán cá nhân”. Khác với phần lớn những cỗ máy cùng thời, Apple II dễ lắp ráp và dễ sử dụng, thậm chí lại có khả năng hiển thị cả màu sắc.
Cuộc cách mạng đầu tiên của Steve Jobs: Máy vi tính cá nhân để bàn.
Đến 1984, khái niệm “máy tính cho mọi người” được Steve Jobs đưa lên một tầm cao mới với Macintosh, chiếc PC thương mại đầu tiên có giao diện trực quan GUI. Chỉ 1 năm sau, mâu thuẫn với ban lãnh đạo khiến Steve Jobs phải rời đi – cùng lúc, Bill Gates cũng đưa GUI đến mọi nhà qua Windows. Đến 1997 ông mới quay trở lại để “hồi sinh” Apple qua chiếc iMac độc đáo, sản phẩm được coi là đã góp phần thúc đẩy sự bùng nổ của Internet trên toàn cầu.
3 năm trước khi qua đời, ông để lại di sản cuối cùng cho máy Mac vào năm 2008, khi rút chiếc MacBook Air từ bên trong phong bì. Chiếc Macintosh dễ sử dụng năm nào giờ đã được gói gọn thành một khối kim loại tuyệt đẹp; các kết nối rườm rà được tập trung lại thành một trải nghiệm siêu tiện dụng với touchpad và Wi-Fi.
Video đang HOT
Các iFan sẽ gọi Apple II, Macintosh 1984, iMac 1998 và MacBook Air 2008 là những sản phẩm cách mạng. Ít ai nhận ra rằng chúng không phải là những cuộc cách mạng thực sự riêng rẽ, mà chỉ là những bản cập nhật lớn, giúp đem đến một trải nghiệm mới tốt đẹp hơn nhưng không thay đổi về bản chất. Đến cuối cùng, Macintosh, iMac và MacBook Air đều chỉ là những sản phẩm kế thừa vai trò của Apple II: những cỗ máy vi tính dành cho từng cá nhân – PC.
Những “cuộc cách mạng” PC sau này của Steve Jobs thực chất đều chỉ là nối tiếp cách mạng của Apple II mà thôi.
Cách mạng di động của Steve Jobs
Sau PC, Steve Jobs chỉ kịp thực hiện thêm một cuộc cách mạng thứ hai: di động. Và cuộc cách mạng này bao gồm cả iPod, iPhone và iPad, vốn là những điểm sáng dồn dập trong 10 năm cuối đời của nhà sáng lập Táo. Một lần nữa, chúng không hẳn là những cuộc cách mạng riêng rẽ mà chỉ là những hình thái có liên quan chặt chẽ đến nhau trong cùng một cuộc cách mạng mà thôi.
Đó là cuộc cách mạng di động. Khi nhìn thấy nguy cơ doanh số iPod có thể bị “nuốt chửng” bởi điện thoại nhiều tính năng, Steve Jobs bắt tay vào công cuộc định nghĩa smartphone của riêng mình. Chiếc iPhone, sản phẩm có thể coi là đã mở đường cho smartphone cảm ứng trở thành hình thái công nghệ (form factor) phổ biến nhất, đã bắt nguồn bằng 3 khía cạnh đơn giản: “iPod. Điện thoại. Máy liên lạc Internet”. Một cỗ máy nghe nhạc cầm tay như vậy đã trở thành tiền đề để máy vi tính thu nhỏ vào lòng bàn tay.
iPod, iPhone và iPad không phải là những cuộc cách mạng riêng rẽ.
Apple Watch và AirPods cũng vậy – chúng vẫn thuộc về cuộc cách mạng di động đã được Apple khởi xướng từ trước đây rất lâu.
Còn iPad đơn thuần chỉ là những chiếc iPhone phóng to. Sự khác biệt duy nhất là màn hình iPad lớn hơn, còn trải nghiệm và thậm chí là phần mềm cũng gần như giống hệt. iPad bùng nổ chỉ vì người dùng cần một thiết bị giải trí có màn hình đủ lớn để xem phim hay đọc báo và thân hình đủ nhỏ để cầm trên tay. Sau khi nhu cầu nhỏ hẹp này được đáp ứng, doanh số iPad đã bão hòa từ rất sớm, thậm chí là trước cả iPhone.
30 năm mới có được một lần
2 cuộc cách mạng của Apple cách nhau bao xa? Nếu chọn Apple II làm điểm khởi đầu cho cách mạng điện toán cá nhân và iPhone là điểm khởi đầu cho cách mạng di động, công ty của Steve Jobs đã mất đúng 30 năm. Ngay cả Steve Jobs và những bộ óc thiên tài tại Apple cũng đã mất đến 30 năm để cách mạng hóa những cỗ máy tính toán, từ trên bàn (hoặc trên đùi) đi vào lòng bàn tay (và túi quần) của người dùng, từ một công cụ tối ưu cho công việc trở thành một công cụ lấy kết nối làm trọng tâm.
Trước đó, 30 năm cũng là khoảng thời gian để thế giới có thể dịch chuyển từ cỗ máy tính điện tử đầu tiên (phát triển trong thế giới thứ hai) sang những chiếc máy “vi tính” đủ nhỏ để sử dụng cho cá nhân – Apple II, Commodore 64, Atari 8-bit hay IBM PC.
Nếu Steve Jobs còn sống, ông có lẽ vẫn sẽ mất thêm cả một thập kỷ nữa để tạo ra cuộc cách mạng hi-tech tiếp theo.
Điều này có nghĩa rằng chúng ta sẽ phải chờ ít nhất một thập kỷ nữa nếu muốn chứng kiến “ sao đổi ngôi” trong thế giới hi-tech. Và đó là trong trường hợp smartphone có thể bị thay thế…
Còn Apple… Thực tế là Apple vẫn đang sáng tạo – Apple Watch hay AirPods là minh chứng điển hình cho thấy nhà Táo vẫn có khả năng tiên phong mở rộng những chủng loại thiết bị mới. Nhưng tất cả đều chỉ có thể giúp cải thiện trải nghiệm di động quen thuộc của chúng ta chứ chưa thể thay đổi hoàn toàn bản chất của ngành công nghiệp hi-tech theo cái cách mà Apple II hay iPhone đã làm. Đừng vội trách Apple mất sức sáng tạo sau khi Steve Jobs ra di: kể cả nếu ông vẫn ở lại, Apple cũng mới chỉ đi được một nửa chặng đường đến cột mốc tiếp theo mà thôi.
Những người hùng thầm lặng phía sau Apple, Microsoft
Bên cạnh Steve Jobs hay Bill Gates, những nhà đồng sáng lập khác cũng góp công lớn cho việc xây dựng Apple, Microsoft.
Steve Wozniak cùng Steve Jobs thành lập Apple vào năm 1976 trong khi vẫn làm việc cho hãng máy tính Hewlett-Packard. Tại Apple, Jobs tập trung vào tiếp thị còn Wozniak lo liệu chế tạo sản phẩm. Năm 1985, Wozniak rời Apple do tính cách thẳng thắn không phù hợp để ông ở lại công ty. Dù vậy, Wozniak là chủ nhân hàng loạt bằng sáng chế của Apple. Hiện nay, ông vẫn nằm trong danh sách nhân viên Apple, được trả lương mỗi tuần.
Ronald Wayne cũng là nhân vật quan trọng của Apple khi tạo nên logo đầu tiên cho công ty: hình ảnh vẽ bằng mực với biểu tượng Newton ngồi dưới gốc cây, một trái táo trên đầu. Wayne nắm giữ 10% cổ phần Apple nhưng đã bán hết sau 12 ngày thành lập công ty để lấy 800 USD - quyết định mà ông cho là không hối hận. Hiện nay, Wayne là tác giả 2 cuốn sách, nắm giữ nhiều bằng sáng chế, nhà sưu tập và mua bán tem, tiền xu. Năm 2014, Wayne từng bán đấu giá một số kỷ vật của Apple.
Ngoài Jack Dorsey (trái), Twitter còn có 3 đồng sáng lập là Biz Stone (giữa), Evan Williams (phải) và Noah Glass. Trước khi trở thành website độc lập, Twitter là nền tảng thuộc Odeo - dịch vụ cung cấp âm thanh được tạo ra bởi Noah Glass và Evan Williams. Dorsey, lúc ấy là thiết kế web của Odeo, nảy sinh ý tưởng về Twitter khi Williams muốn phát triển tính năng mới cho Odeo. Glass đã làm việc cùng Dorsey, thuê một lập trình viên có tên Florian Webber để hiện thực hóa ý tưởng. Trong khi đó, cựu nhân viên Google là Biz Stone được chiêu mộ để hỗ trợ Twitter về pháp lý.
Năm 2006, Williams thâu tóm toàn bộ Odeo (bao gồm Twitter) rồi đổi tên thành Obvious Corp, sau đó sa thải Glass (ảnh). Lý do chính xác không được tiết lộ, nhưng nhiều người cho rằng tính cách của Williams và Glass không hợp nhau. Tháng 4/2007, Twitter tách khỏi Obvious Corp thành công ty riêng. Williams đảm nhiệm vị trí CEO Twitter trong một thời gian trước khi rời bỏ để thành lập nền tảng xuất bản Medium. Dorsey đang là CEO của Twitter. Thông tin về Glass khá hiếm, chỉ có hồ sơ Twitter với dòng chữ "Tôi đã bắt đầu nó".
Ngoài Elon Musk, 4 nhà sáng lập còn lại của hãng xe Tesla được công nhận gồm Martin Eberhard (ảnh), Marc Tarpenning, Ian Wright và JB Straubel. Hãng xe này là đứa con tinh thần của Eberhard và Tarpenning, được thành lập năm 2003 với giấc mơ sản xuất xe điện. Để có kinh phí hoạt động, cả 2 cần một nhà đầu tư lớn để dẫn đầu vòng gọi vốn Series A. Cùng với Ian Wright và JB Straubel, Eberhard đã thuyết phục thành công Elon Musk đầu tư cho Tesla vào năm 2004.
Elon Musk giúp Tesla dẫn đầu 2 vòng gọi vốn, đồng dẫn đầu vòng 3 trước khi Tesla ra mắt chiếc xe đầu tiên mang tên Roadster vào năm 2006. Eberhard và Tarpenning (ngồi bên trái) đã rời Tesla sau khi Eberhard bị giáng chức CEO vào năm 2007, một năm trước khi Musk đảm nhận vị trí. Eberhard đã khởi kiện Tesla với cáo buộc phỉ báng, vu khống và vi phạm hợp đồng, cho rằng Tesla đã làm "méo mó lịch sử" khi loại bỏ vai trò đồng sáng lập của Eberhard. Cuối cùng, Eberhard đã rút đơn kiện sau khi chấp nhận giải pháp đưa tên ông vào danh sách 5 nhà sáng lập chính thức của Tesla.
Ngoài Bill Gates, nhà sáng lập còn lại của Microsoft là Paul Allen. Cả 2 là bạn ở trường trung học, cùng thành lập Microsoft vào năm 1975. Cái tên Microsoft (ban đầu là Micro-Soft) được nghĩ ra bởi Allen. Năm 1982, Allen rời Microsoft khi được chẩn đoán mắc ung thư hạch, một loại ung thư ảnh hưởng đến hệ miễn dịch. Bệnh tình của ông tái phát vào các năm 2009, 2018 trước khi qua đời ở tuổi 65. Là một nhà từ thiện, Allen đã quyên góp hơn 2 tỷ USD trong suốt cuộc đời. Ông còn tham gia kinh doanh khi sở hữu đội bóng rổ Portland Trail Blazers, đội bóng bầu dục Seattle Seahawks và Viện Khoa học não bộ Allen.
Bên cạnh Mark Zuckerberg, các đồng sáng lập còn lại của Facebook gồm Dustin Moskovitz (ảnh), Chris Hughes, Andrew McCollum và Eduardo Saverin. Đều là sinh viên Đại học Harvard, 4 người đã cùng Zuckerberg phát triển thefacebook.com (tiền thân của Facebook). Saverin là nhà đầu tư đầu tiên của Facebook, đảm nhận vai trò đối tác kinh doanh. Moskovitz phát triển, vận hành website sau khi "học PHP (ngôn ngữ lập trình cho máy chủ) trong vài ngày", theo lời Zuckerberg.
Hughes đảm nhiệm phát ngôn viên, người thử nghiệm, chuyên gia tiếp thị, đại diện chăm sóc khách hàng và những vai trò cần kết nối với người dùng. McCollum (ảnh) là người thiết kế logo đầu tiên của Facebook - khuôn mặt phác thảo của nam diễn viên Al Pacino. McCollum từng phát triển chương trình chia sẻ file dành cho Facebook có tên Wirehog nhưng không được Zuckerberg chấp thuận.
Sau khi thefacebook.com ra mắt năm 2004, Zuckerberg, Hughes (ảnh) và Moskovitz chuyển đến Palo Alto, California. Zuckerberg và Moskovitz quyết định bỏ học để phát triển Facebook, trong khi Hughes tiếp tục việc học tại Harvard rồi quay lại Facebook sau khi tốt nghiệp năm 2006. Saverin được Zuckerberg cho "ra rìa" vì không đóng góp nhiều cho công ty. Năm 2007, Hughes rời Facebook để làm người tình nguyện viên cho chiến dịch tranh cử tổng thống của Barack Obama. Tháng 5/2019, Hughes gây chấn động sau một bài báo trên New York Times kêu gọi các nhà quản lý chia tách Facebook để bảo vệ người dùng.
Mike Krieger (phải) là đồng sáng lập Instagram bên cạnh Kevin Systrom. Khi còn ở Đại học Stanford, Krieger đã phát triển ứng dụng có tên Meebo trước khi làm việc cùng Systrom với Burbn - website dùng để check-in và chia sẻ ảnh, là tiền thân của Instagram. Cả 2 đã loại bỏ hầu hết tính năng của Burbn, chỉ còn lại chia sẻ ảnh rồi đổi tên thành Instagram, phát hành lần đầu trên iOS vào tháng 10/2010. Đến tháng 4/2012, Facebook mua lại Instagram với giá 1 tỷ USD. Krieger và Systrom ở lại Facebook để tiếp quản Instagram trước khi hoàn toàn rời công ty vào năm 2018.
Bill Gates ngưỡng mộ Steve Jobs Ông chủ Microsoft bày tỏ ngưỡng mộ với Steve Jobs và cho biết ông từng ao ước có thể sao chép sức hút tự nhiên của người lãnh đạo Apple. Trong cuộc phỏng vấn trên kênh podcast Armchair Expert giữa tuần trước, Bill Gates, người giàu thứ hai thế giới, cũng là biểu tượng trong giới công nghệ, cho biết ông từng ghen...