Sách giáo khoa – nhìn từ các nước phát triển
GS.TS Trần Thị Vinh – Khoa Lịch sử, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội cho biết: Ở Mỹ và Canada, cũng như phần lớn các nước phát triển trên thế giới, sách giáo khoa là kết quả nghiên cứu công phu của các nhà khoa học, chuyên gia giáo dục, các giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy ở các cấp học.
Học sinh Singapore thảo luận nội dung bài trên nền tảng SGK
Tiêu chí cơ bản
Ở Mỹ và Canada có nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau được biên soạn cho cùng một môn học. Kiến thức trong sách giáo khoa là một hệ thống kiến thức khoa học, chuẩn xác, theo một trình tự logic chặt chẽ, được gia công về mặt sư phạm cho phù hợp với trình độ học sinh các cấp học và thời gian học tập. Ngoài phần kiến thức, sách giáo khoa còn có một phần về rèn luyện các kỹ năng, các phương pháp dạy và học môn học.
Cùng với việc xác định các yêu cầu phải có đối với sách giáo khoa, việc xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá sách giáo khoa để làm căn cứ xuất phát cho các tác giả sách giáo khoa hết sức quan trọng. Hệ thống tiêu chí này cũng được sử dụng như một công cụ cho việc đánh giá, thẩm định sách giáo khoa cũng như phê duyệt, cho phép sử dụng sách giáo khoa trong công tác dạy học ở các cấp phổ thông.
Nhấn mạnh điều này, GS.TS Trần Thị Vinh cho biết: Những tiêu chí cơ bản nhất đặt ra đối với một bộ sách giáo khoa ở Mỹ và Canada là: Phải vừa là tài liệu cung cấp nội dung dạy học, vừa là nơi khởi đầu, kích thích sự tìm tòi kiến thức từ các nguồn khác nhau. Nội dung sách giáo khoa phải tạo cơ hội cho việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực với mục tiêu phát triển năng lực học sinh và khơi gợi hứng thú, khát vọng học tập suốt đời, khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các vấn đề trong học tập và cuộc sống.
Sách giáo khoa được xem như một công cụ quan trọng trong quá trình dạy học, giúp người thầy không chỉ là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, hướng dẫn học sinh tự học, tự khai thác kiến thức, vận dụng kiến thức để hình thành năng lực, phẩm chất, kỹ năng và khả năng thích ứng với môi trường.
Tiêu chí đánh giá, thẩm định sách giáo khoa và tài liệu dạy học trên lớp cũng không phải là bất biến mà còn tuỳ vào nhận thức xã hội ở mỗi thời điểm. Trong quy trình biên soạn sách giáo khoa, khâu thẩm định sách và các tài liệu đọc thêm là hết sức quan trọng.
Sách giáo khoa đóng vai trò phát triển năng lực học sinh tại các nước phát triển
Một biện pháp thường được áp dụng ở Mỹ và Canada là việc thành lập các hội đồng kiểm soát chuyên môn bao gồm những giảng viên đại học, nhà khoa học, chuyên gia giáo dục, giáo viên các trường phổ thông có uy tín trực tiếp tham gia giảng dạy (không phải là tác giả sách giáo khoa) làm công tác phản biện và kiểm soát chất lượng các tài liệu phát triển thêm. Đồng thời, học sinh các trường phổ thông cũng được tham gia vào quá trình thẩm định với tư cách là những người sử dụng và thụ hưởng sách giáo khoa.
Kiến thức, thực hành, ứng dụng
Video đang HOT
GS.TS Trần Thị Vinh cho rằng, nhìn chung, sách giáo khoa ở Mỹ và Canada chú trọng ba yếu tố cơ bản là: Kiến thức (kiến thức cơ bản, tinh giản, có hệ thống, cập nhật, vừa sức, phải tạo hứng thú, phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh); thực hành (kết hợp lý thuyết và thực hành, phân tích, sáng tạo và ứng dụng (áp dụng kiến thức, khả năng sáng tạo, kỹ năng ứng dụng vào tình huống thực tế, rút ra bài học).
“Ở Mỹ và Canada, đội ngũ tác giả biên soạn sách giáo khoa là các nhà khoa học trong các lĩnh vực khoa học cơ bản, đồng thời là những chuyên gia giỏi về giáo dục học và giáo viên giỏi, có kinh nghiệm ở các trường phổ thông. Theo quan điểm của một số chuyên gia, sách giáo khoa chỉ đạt yêu cầu khi có sự tham gia của đại diện các nhà khoa học thuộc các môn học, nhà giáo dục (tâm lý học, giáo dục học), nhà giáo và do chính đại diện học sinh tham gia thẩm định.”
GS.TS Trần Thị Vinh
Theo đó, sách giáo khoa có những nội dung cơ bản có tính hàn lâm làm nền tảng, đồng thời có những nội dung có tính ứng dụng giúp học sinh thực hành và qua thực hành sẽ học tốt hơn. Vấn đề quan trọng mà các tác giả sách giáo khoa luôn chú trọng là xử lý làm sao bảo đảm được sự hài hoà cân đối giữa nội dung có tính hàn lâm và nội dung có tính ứng dụng.
Sách giáo khoa dành cho học sinh từng lớp học, cấp học có phần khác biệt bởi dấu ấn của tác giả nhưng đều phải đáp ứng được những yêu cầu, chuẩn mực chung. Việc cụ thể hoá nội dung giáo dục thành sách giáo khoa dành cho học sinh thường được tổ chức làm việc chuyên nghiệp, theo bài bản khoa học từ tổ chức nhân sự đến quy trình thẩm định, hoàn thiện bộ sách giáo khoa.
Sách giáo khoa cũng phải bảo đảm ba nguyên tắc: Phát triển, chuẩn mực, tối ưu. Bên cạnh đó, việc tổ chức biên soạn các tài liệu bổ trợ trực tiếp cho hệ thống sách giáo khoa và khuyến khích giáo viên, tập thể sư phạm trường liên kết biên soạn các tài liệu bổ trợ được đặc biệt chú trọng.
Vì mục tiêu phát triển năng lực học sinh
Trong quá trình biên soạn sách giáo khoa, các tác giả phải tính đến điều kiện, yêu cầu và giới hạn như mô hình giảng dạy, lứa tuổi và đặc điểm cá nhân của học sinh, các nguồn tư liệu bổ sung trong sách giáo khoa, đặc biệt với ngành khoa học xã hội và nhân văn. Nội dung bổ sung gồm những tư liệu, trích đoạn từ các tài liệu khoa học thường thức, tiểu thuyết viễn tưởng, tiểu sử các nhà khoa học… giúp khơi dậy niềm hứng thú của học sinh, giúp các em liên hệ giữa học tập với thực tiễn cuộc sống.
Theo chia sẻ của GS.TS Trần Thị Vinh: Sách giáo khoa ở Mỹ và Canada đều nhằm mục tiêu phát triển năng lực học sinh. Theo đó, nội dung sách thường cấu trúc theo hai phần: Bài viết (trình bày kiến thức) và phần “Hoạt động sư phạm”.
Phần nội dung kiến thức chỉ chắt lọc những kiến thức cơ bản, tinh giản theo quy định của chương trình. Phần “hoạt động sư phạm” gồm hệ thống các câu hỏi, bài tập, các kênh hình, bài đọc thêm, tài liệu tham khảo, hệ thống tư liệu, số liệu minh chứng… Các tình huống sư phạm, các bài học sẽ được đặt ra dưới dạng các chủ đề. Phần cơ chế sư phạm là các hoạt động để phần nội dung được chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động.
Sách giáo khoa không chạy theo khối lượng tri thức mà chú ý khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm, động cơ… vào giải quyết các tình huống trong cuộc sống hàng ngày của học sinh. Vì thế, những người viết sách chủ trương chỉ lựa chọn một số nội dung cơ bản, thiết thực, gần gũi với cuộc sống thay vì tập trung vào kiến thức, nặng về kiến thức hàn lâm. Việc tích hợp và lồng ghép các giá trị thực tế đời sống vào sách giáo khoa, tăng cường tính sư phạm, tính hấp dẫn và tính bền vững của sách giáo khoa đặc biệt coi trọng.
Đồng thời, sách giáo khoa ở một số nước rất chú trọng đến hệ thống bài đọc thêm, tài liệu tham khảo phụ trợ cho quá trình dạy học, tăng tính mở của việc biên soạn và phát triển nội dung sách giáo khoa. Các cơ quan quản lý quy định và thiết kế phần lõi của chương trình, trên cơ sở đó, các tác giả có thể thiết kế bổ sung các bài tập, bài đọc và các tài liệu bổ trợ nhằm mang lại những giá trị lớn nhất cho giáo viên và học sinh.
“Một xu thế phát triển phổ biến của việc biên soạn và xuất bản sách giáo khoa trên thế giới là xu thế tích hợp các công nghệ và Internet vào xuất bản sách giáo khoa, trong đó có sách giáo khoa điện tử. Sách giáo khoa ở Mỹ và Canada được thiết kế tích hợp với máy tính bảng, Internet và công nghệ di động.
Nhờ tính mở và di động, khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền, các địa phương trong phạm vi quốc gia được khắc phục nhanh chóng. Không chỉ học sinh học từ giáo viên, ngay cả cộng đồng giáo viên, học sinh các tỉnh xa xôi cũng có thể trao đổi và phát huy kinh nghiệm với các đồng nghiệp tại các thành phố, các trung tâm đô thị lớn” – GS.TS Trần Thị Vinh thông tin thêm.
“Trong bối cảnh của sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng tin học, sự bùng nổ thông tin từ các kênh khác nhau như hiện nay, một số chuyên gia giáo dục cho rằng, sách giáo khoa giờ đây không còn là “pháp lệnh”, là nguồn thông tin duy nhất nữa mà chỉ là một trong những công cụ dạy và học, trình bày thông tin, kiến thức và gợi ý hoạt động sư phạm theo quan điểm của người biên soạn. Do vậy, vấn đề đặt ra là cần có nhiều bộ sách giáo khoa cho một chương trình giáo dục để các trường, giáo viên, học sinh có thể lựa chọn một bộ sách thích hợp và tối ưu cho mình”. – GS.TS Trần Thị Vinh
Hiếu Nguyễn
Theo GDTĐ
Lần đầu tiên có sách giáo khoa Giáo dục thể chất: Cần, nhưng chưa đủ
Theo các chuyên gia giáo dục, việc có sách cho môn Giáo dục thể chất là cần thiết. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn phải đầu tư cơ sở vật chất phục vụ môn học này trong các nhà trường.
Môn Giáo dục thể chất đòi hỏi phải có cơ sở vật chất, dụng cụ học tập phù hợp. (Ảnh: PV/Vietnam )
Bắt đầu từ năm học 2020-2021, khi cả nước chính thức triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới, lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam sẽ có sách giáo khoa môn Giáo dục thể chất. Điều này khiến nhiều người không khỏi bất ngờ, thậm chí có nhiều ý kiến trái chiều.
Không đơn thuần là môn thể dục
Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, Giáo dục thể chất là môn học bắt buộc được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 12. Mục tiêu của môn học là trang bị cho học sinh kiến thức và kỹ năng chăm sóc sức khỏe; kiến thức và kỹ năng vận động; hình thành thói quen tập luyện, khả năng lựa chọn môn thể thao phù hợp để luyện tập nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực và tố chất vận động. Môn học sẽ giúp học sinh có ý thức, trách nhiệm đối với sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng, thích ứng với các điều kiện sống, vui vẻ, hòa đồng với mọi người.
Ở giáo dục cơ bản (từ lớp 1 đến lớp 9), môn học này giúp học sinh biết cách chăm sóc sức khỏe và vệ sinh thân thể; hình thành thói quen tập luyện nâng cao sức khỏe; hình thành kỹ năng vận động cơ bản, phát triển tố chất thể lực. Học sinh được lựa chọn nội dung hoạt động thể dục thể thao phù hợp với thể lực của mình và khả năng đáp ứng của nhà trường.
Với giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (từ lớp 10 đến lớp 12), môn Giáo dục thể chất được thực hiện thông qua câu lạc bộ thể dục thể thao.
Lý giải về sự ra đời của sách giáo khoa Giáo dục thể chất, giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông mới cho rằng lâu nay trong các nhà trường, Giáo dục thể chất chưa được chú trọng đúng vai trò.
Cụ thể, đây là môn học trong bốn lĩnh vực cốt yếu đức, trí, thể, mỹ nhưng trong các nhà trường lại chỉ là môn rất phụ, với những bài học thể dục như nhau được áp dụng cho mọi học sinh. Vì thế, môn Giáo dục thể chất đa phần được gọi với tên môn Thể dục. Đây cũng là môn duy nhất không có sách giáo khoa.
Theo ông Thuyết, việc có sách giáo khoa sẽ giúp môn học có sự công bằng hơn với các môn học khác. Đặc biệt, Giáo dục thể chất trong chương trình mới có nhiều sự thay đổi, không chỉ dừng lại ở tập các động tác thể dục nhưng trước đây, học sinh được học cách chăm sóc sức khỏe, nề nếp sinh hoạt, dinh dưỡng phù hợp để nâng cao sức khỏe. Các em cũng lựa chọn các môn học phù hợp với sức khỏe. Vì vậy, việc có sách giáo khoa là cần thiết để chuyển tải các nội dung chương trình đến học sinh.
Học sinh tham gia ngày hội thể dục thể thao để thúc đẩy các hoạt động tăng cường thể lực. (Ảnh: PV/Vietnam )
Trả môn học về đúng vị trí
Sự ra đời đầy mới lạ của sách giáo khoa giáo dục thể chất khiến nhiều người bất ngờ, thậm chí có nhiều ý kiến trái chiều.
Theo tiến sỹ Vũ Thu Hương, một chuyên gia giáo dục tại Hà Nội, việc có hay không có sách giáo khoa không cải thiện được vị thế của môn học. Thực tế cho thấy, có nhiều môn có sách như mỹ thuật vẫn không được coi trọng. Trong khi đó, Giáo dục thể chất lại là môn thiên về vận động. Vì thế, bà Hương bày tỏ lo ngại khi có sách sẽ làm giảm giờ học tập luyện vốn đã khá ít ỏi của môn học này.
Cùng quan điểm này, giáo sư Phạm Tất Dong, Phó Chủ tịch hội Khuyến học Việt Nam cho rằng để phát triển môn Giáo dục thể chất nên tập trung đầu tư hệ thống cơ sở vật chất phục vụ môn học này cho các nhà trường.
Tuy nhiên, nhìn từ góc độ thực tế giảng dạy, ông Dương Minh Dũng, giáo viên Giáo dục thể chất trường Lê Quý Đôn (Hà Nội) nhận định việc có sách giáo khoa sẽ tốt hơn cho giáo viên và học sinh. "Học sinh sẽ hiểu hơn môn Giáo dục thể chất tốt cho các em như thế nào. Bên cạnh đó, nhiều nội dung nếu có phần lý thuyết sẽ tốt hơn là không có như hiện nay," ông Dũng chia sẻ.
Ông Nguyễn Quốc Bình, Hiệu trưởng Trường Lê Quý Đôn (Hà Nội) tỏ ra khá vui mừng trước thông tin sẽ có sách giáo khoa Giáo dục thể chất. Theo ông Bình, trong suy nghĩ của nhiều người, đây là môn học bị coi nhẹ trong khi đáng ra phải là môn học quan trọng vì góp phần tạo nên sức khỏe, thể lực cho học sinh, có sức khỏe tốt mới có thể học tập tốt.
"Nếu như nói thể dục chủ yếu là thầy cô hướng dẫn và không cần sách thì tôi nghĩ chưa đầy đủ. Thầy cô nói trên lớp các em sẽ mau quên. Có sách, các em sẽ có điều kiện tìm hiểu kỹ hơn. Tôi ủng hộ có sách cho môn này. Vấn đề là cách viết như thế nào để ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu giúp học sinh nắm bắt tốt hơn kỹ thuật các động tác để đạt hiệu quả khi vận động thực tế," ông Bình phân tích.
Ông Bình cũng cho rằng việc có sách là chưa đủ, cần phải có phương tiện, công cụ, giáo dục để cho hoạt động thể chất và rèn luyện trong nhà trường, đặc biệt là thay đổi nhận thức của cả học sinh, giáo viên, phụ huynh và cả các cấp quản lý giáo dục về môn học này.
"Phải có sự quan tâm đồng bộ mới hy vọng có sự cải thiện nhất định môn học này, từ đó góp phần cải thiện về chiều cao thể chất con người Việt Nam trong thập niên tới," ông Bình nói./.
Theo vietnamplus
Cần minh bạch, hiệu quả trong quản lý, thẩm định sách giáo khoa Thời gian qua, vấn đề sách giáo khoa (SGK) giáo dục phổ thông luôn thu hút sự chú ý quan tâm của dư luận xã hội. Bởi việc quản lý SGK hiện hành chưa chặt chẽ, trong khi công tác biên soạn và thẩm định SGK mới của ngành giáo dục còn nhiều vướng mắc, bất cập. Phụ huynh và học sinh chọn...